Đường lối giải quyết các trường hợp li hôn theo luật định

16/02/2023
Trước đây, theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình và pháp luật tố tụng dân sự, chỉ vợ, chồng hoặc hai vợ chồng (trường hợp thuận tình li hôn) mới có quyền yêu cầu li hôn. Ngoài hai vợ chồng thì không ai có quyền yêu cầu li hôn. Hiện nay, xuất phát từ thực tiễn và nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định: "Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết li hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ". Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Về quyền yêu cầu li hôn: Trước đây, theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình và pháp luật tố tụng dân sự, chỉ vợ, chồng (trường hợp một bên yêu cầu) hoặc hai vợ chồng (trường hợp thuận tình li hôn) mới có quyền yêu cầu li hôn. Ngoài hai vợ chồng thì không ai có quyền yêu cầu li hôn. Hiện nay, xuất phát từ thực tiễn và nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, khoản 1, 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định: “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết li hôn. 2. Cha, mẹ, người thân thích khác cổ quyền yêu cầu Tòa án giải quyết li hôn khỉ một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mẳc bệnh khác mà không thế nhận thức, làm chủ được hành vỉ của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tỉnh thần của họ". Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Quyền khởi kiện, yêu cầu li hôn trong trường hợp đặc biệt này của cha, mẹ, người thân thích khác đã được pháp luật ghi nhận.

Tuy nhiên, trong thực tiễn, có thể có trường hợp bên người vợ, chồng là người mất năng lực hành vi dân sự và là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng, tinh thần của họ nhưng lại không có cha, mẹ, người thân thích của mình thì pháp luật có cho phép cha, mẹ, người thân thích khác của bên chồng, vợ cũng có quyền yêu cầu li hôn không? Rất cần có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc hướng dẫn áp dụng để bảo đảm sự thống nhất.

Về nguyên tắc, khi vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu li hôn, xét thấy hợp lí, Tòa án thụ lí vụ việc li hôn và giải quyết theo thủ tục luật định. Trong mọi trường họp li hồn, Tòa án đều phải tiến hành hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa vợ chồng.

Cần thấy rằng, trong từng thời kì cách mạng, giải quyết các loại việc li hôn cụ thể là giải quyết các mâu thuẫn trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, giải quyết một vấn đề xã hội to lớn. Giải quyết li hôn đúng đắn, chính xác có ảnh hưởng lớn đối với việc đấu tranh chống ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng phong kiến, tư sản lạc hậu về hôn nhân và gia đình, có tác dụng giáo dục quần chúng sống có đạo đức, tuân thủ pháp luật; góp phần xây dựng và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trước đây, ngay sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực thi hành từ ngày 13/01/1960, Thông tư số 690/DS ngày 29/4/1960 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết việc li hôn và các vấn đề có liên quan đã xác định vai trò của Tòa án nhân dân là “thông qua công tảc xét xử, đề cao chỉnh sảch, pháp luật, giáo dục quần chủng, giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân và gia đình nhằm cải thiện những quan hệ vợ chổng chưa đảng phải ỉỉ hôn, ỉàm cho gia đình đoàn tụ lại trên cơ sở mới Thông tư hướng dẫn đường lối giải quyết chung và đường lối giải quyết cụ thể trong cả hai trường họp li hôn phải bảo đảm quán triệt đường lối là: Một mặt phải bảo đảm thực hiện tự do li hôn, mặt khác phải giải quyết chính xác, không gò bó, đồng thời không khinh suất.

Thực tiễn xét xử các loại vụ việc li hôn trong những năm trước đây, qua từng thời gian, có từng thông tư, chỉ thị của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình đối với từng trường hợp li hôn cụ thể.

- Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân và gia đinh của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.

- Chỉ thị số 08/DS ngày 19/9/1967 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết việc li hôn do một bên vợ, chồng bị tập trung cải tạo.

- Thông tư liên ngành số 06-TT/LN ngày 30/12/1986 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền và thủ tục giải quyết những việc li hôn giữa các công dân Việt Nam mà một bên ở nước chưa có hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề hôn nhân và gia đình với nước ta.

" Ngoài ra, trong các bản báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án hàng năm, Tòa án nhân dân tối cao còn hướng dẫn đường lối xét xử một số loại việc li hôn như li hôn với một bên vợ, chồng là người Việt gốc Hoa, li hôn với một bên theo Folro, li hôn với một bên ở nước ngoài, li hôn trong trường hợp một bên ngoại tình hoặc không có con...

Với tất cả mọi trường hợp phải quán triệt yêu cầu giải phóng cho cả vợ và chồng khỏi sự áp bức của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, tư sản lạc hậu, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và các con trên cơ sở chính sách hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, Tòa án chỉ giải quyết cho vợ chồng li hồn khi quan hệ hồn nhân đã hoàn toàn tan vỡ, có đủ căn cứ cho li hôn theo luật định (khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

- Về nguyên tắc chung, Tòa án thụ lí đơn yêu cầu li hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự (Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Trong trường họp không đăng kí kết hôn mà có yêu cầu li hôn thì Tòa án thụ lí và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng và giải quyết hệ quả theo quy định tại các Điều 13,14,15 và 16 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Cần lưu ý, đối với cả trường hợp một bên vợ, chồng có yêu cầu li hôn hoặc hai vợ chồng xin thuận tình li hôn, xét thấy hợp lí, sau khi thụ lí đơn li hôn của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án đều phải tiến hành hòa giải. Việc hòa giải ở cơ sở được khuyến khích (Điều 52 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chông có yêu câu li hôn. Việc hỏa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở"

Qua công tác điều tra, Tòa án tìm hiểu mâu thuẫn giữa vợ chồng có hay không có, nguyên nhân và mức độ của mâu thuẫn đó, điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp, tâm tư tình cảm, nguyện vọng của đương sự. Để điều tra đạt kết quả, là cơ sở cho công tác hòa giải và xét xử li hôn chính xác, cán bộ xét xử phải đi sâu sát xuống cơ sở để xác định sự thật và làm sáng tỏ những mâu thuẫn trong lời khai của đương sự (nếu có); phải dựa vào quần chúng nhân dân, tổ dân phố trong thôn, bản, xã, phường, các cơ quan, đơn vị cơ sở của đương sự, quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

Hòa giải là dựa trên cơ sở của công tác điều tra, lấy lời khai của đương sự; khi đã nắm được nguyên nhân, mức độ mâu thuẫn giữa vợ chồng, điều kiện công tác, hoàn cảnh cụ thể của gia đình, Tòa án cần giải thích, khuyên nhủ, động viên giáo dục, giúp đỡ đương sự hàn gắn những rạn nứt, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Đe đạt được ý nghĩa, mục đích của công tác hòa giải là nhằm đoàn tụ gia đình, cán bộ xét xử phải nhận thức rõ tầm quan trọng của thủ tục hòa giải. Nếu tiến hành hòa giải chỉ bảo đảm về mặt thủ tục, chỉ tiến hành qua loa, đại khái, mang tính hình thức thì việc hòa giải sẽ không đạt được kết quả.

Thực tế cho thấy, thông thường khi hai vợ chồng đã có mâu thuẫn, có đơn yêu cầu li hôn thì giữa họ khó có thể tự giàn xếp mâu thuẫn gia đình, vợ chồng. Lúc này, tác động của người thứ ba (Tòa án) với tấm lòng nhân ái, trách nhiệm, sẽ có vai trò quan trọng đối với việc củng cố hạnh phúc của gia đình, vợ chồng đương sự. Trong công tác hòa giải, Tòa án không phải chỉ kêu gọi họ quay trở lại yêu thương nhau mà cần giáo dục họ quan điểm hôn nhân tiến bộ, đạo đức xã hội chủ nghĩa, nghĩa vụ giữa vợ chồng, hậu quả của việc li hôn...

Vì vậy, để công tác điều tra và hòa giải đạt kết quả tốt, đòi hỏi người thẩm phán, ngoài hiểu biết về pháp luật còn phải có trình độ hiểu biết sâu sắc về tâm lí con người, trình độ chính trị, văn hóa, sự am hiểu về phong tục tập quán cũng như các phương pháp xử thế khác, quán triệt phương châm “kiên trì, còn nước còn tát”.

Lưu ý, thủ tục hòa giải các việc li hôn ở cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng, tuy nhiên theo luật định, thủ tục hòa giải được áp dụng đối với các vụ việc li hôn do Tòa án nhân dân tiến hành là thủ tục pháp lí bắt buộc phải có; nếu trong các hồ sơ về li hôn mà không có biên bản hòa giải không thành thì bản án hoặc quyết định li hôn của Tòa án sẽ bị hủy. Trường hợp hòa giải thành, Tòa án lập biên bản ghi nhận việc hòa giải thành, quan hệ vợ chồng đoàn tụ, nếu hòa giải không thành, Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và quyết định đưa vụ kiện li hôn ra xét xử.

Quá trình giải quyết các vụ việc li hôn cần phân biệt nguyên nhân, lí do, động cơ li hôn của đương sự với căn cứ li hôn theo luật định.

Nguyên nhân li hôn là những sự việc, hiện tượng tác động đến hôn nhân và làm cho hôn nhân tan vỡ (đó là mối quan hệ nhân quả).

Lí do li hôn là cái cớ mà đương sự dựa vào đó để yêu cầu Tòa án cho li hôn (thường là lỗi của bị đơn). Như vậy, lí do li hôn thường trùng với nguyên nhân gây nên mâu thuẫn vợ chồng. Thực tế ở nước ta hiện nay, những nguyên nhân hoặc lí do xin li hôn của đương sự thường là do vợ, chồng ngoại tình; do mâu thuẫn gia đình; do vợ chồng tính tình không hợp; do một bên không có khả năng sinh con (hoặc mắc bệnh vô sinh) hoặc không có con trai; do một bên vợ, chồng phạm tội hoặc vượt biên trốn đi nước ngoài... thông thường đó là lỗi của bị đơn. Động cơ xin li hôn là trạng thái tâm lí bên trong của đương sự, thúc đẩy đương sự xin li hôn (ví dụ: đương sự xin li hôn với mục đích để lấy vợ khác trẻ, đẹp hơn, có điều kiện kinh tế hơn...).

Phải nhận thức rằng, khi xin li hôn, các đương sự thường xuất phát từ lí do, động cơ li hôn chính đáng (hoặc đôi khi không chính đáng), Tòa án không dựa vào lí do, động cơ lí hôn để giải quyết cho hoặc không cho li hôn; hoàn toàn không được dựa vào lỗi của đương sự để quyết định cho li hôn. Lí do, động cơ xin li hôn của đương sự chỉ là những tình tiết tham khảo, trên cơ sở đó Tòa án giải quyết li hôn được đúng đắn, chính xác. Khi giải quyết li hôn, Tòa án phải nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng bản chất của vấn đề. Trong mọi trường hợp li hôn, dù một bên vợ, chồng yêu cầu hoặc cả hai vợ chồng thuận tình li hôn, nếu hòa giải không thành, Tòa án chỉ được giải quyết cho li hôn nếu xét thấy “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (căn cứ li hôn theo luật định).

Có hai trường hợp li hôn theo luật định:

Trường hợp thuận tình li hôn

Đây là trường họp cả hai vợ chồng đều tự nguyện xin li hôn. Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong trường họp vợ chồng cùng yêu cầu li hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện li hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình li hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc li hôn.

Như vậy, việc chấm dứt hôn nhân bằng thuận tình li hôn phải được tiến hành ở Tòa án nhân dân, pháp luật quy định việc thuận tình li hôn là công nhận và bảo đảm quyền tự do li hôn chính đáng của cả hai bên vợ chồng.

Giải quyết li hôn trong trường hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình li hôn, chúng ta cần lưu ý: Nếu như khi kết hôn, sự tự nguyện của hai bên nam nữ là cơ sở quyết định bản chất của sự việc, tức là xác lập quan hệ vợ chồng thì khi thuận tình li hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng không phải là căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Khi li hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng yêu cầu chấm dứt hôn nhân là cơ sở để Tòa án xét xử. Nhưng như vậy chưa đủ, vì vai trò của Tòa án là thay mặt Nhà nước làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai vợ chồng đã thật sự phải chấm dứt chưa. Do vậy, dù vợ chồng thuận tình li hôn, việc xét xử vẫn phải theo đúng bản chất của sự việc, tức là vẫn phải dựa trên bản chất của hôn nhân đã tan vỡ. Có như vậy mới bảo đảm được lợi ích của vợ chồng, con cái và lợi ích của xã hội.

Ngay từ khi ban hành Thông tư số 690/DS ngày 29/4/1960 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn việc xử lí các việc li hôn và các vấn đề liên quan: “Khi Tòa án xử ỉỉ, phải xem xét thận trọng cơ sở tình cảm giữa hai bên vợ chồng còn hay hết và phải thấm tra tỉnh chất tự nguyện xỉn ỉỉ hôn của cả hai bên để bảo đảm quyền tự do li hôn chấn chính của cảc đương sự.

Nếu xét đúng là cả hai bền không còn yêu nhau nữa và đều có sự tự nguyên thực sự, vấn đề con cái, tài sản được giải quyết thoả đáng thì Tòa án sẽ công nhận việc thuận tình li hôn của họ.

Nhưng nếu xét một bên vì bị lừa phỉnh, vì nông nổi, sĩ diện, tự ái mà xin thuận tình lỉ hôn một cách miễn cưỡng thì Tòa án không nên công nhận. Tòa án cần hòa giải để giải quyết mâu thuẫn và giáo dục hai bên trở về đoàn tụ. Trong trường hợp xét thấy người chồng dùng thủ đoạn lừa phỉnh vợ thì nên giảo dục, phê bình một cách thích đảng để cải thiện quan hệ vợ chồng được tốt hơn

-Đối với những trường hợp vợ chồng xin thuận tình li hôn

Nhưng thực tế quan hệ vợ chồng chưa phải là đã đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” thì Tòa án không được ra quyết định công nhận thuận tình li hôn, vì trái với nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình. Bảo đảm “thật sự tự nguyện li hôn” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình li hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện li hôn của cả hai vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù họp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội. Như vậy, muốn biết hai vợ chồng có thật sự tự nguyện xin thuận tình li hôn hay không thì phải xem xét mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng chưa? Mục đích của hôn nhân có đạt được hay không? hai bên đương sự có được tự do bày tỏ ý chí của mình hay không? hai yếu tố này tạo nên căn cứ đầy đủ để Tòa án công nhận thuận tình li hôn. Muốn vậy, cán bộ xét xử phải có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình với công việc, liên hệ mật thiết với cơ sở, quần chúng mới đánh giá được chính xác ý chí tự nguyện thật sự của vợ chồng, đồng thời biết được những trường họp thuận tình li hôn do bị lừa dối, cưỡng ép kí đơn. Phải nhận thức rằng việc ra qưyết định công nhận thuận tình li hôn không phải là việc làm thụ động của Tòa án và ý chí của đương sự không phải là điều kiện quyết định để Tòa án cồng nhận việc thuận tình li hôn của họ.

Cũng theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong việc thuận tình li hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình li hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án quyết định.

Tại Mục 9 của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP đã chỉ rõ:

“a. Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xỉn li hôn thì Tòa án hòa giải không thành thì Tòa án lập biên bản về việc tự nguyên li hôn và hòa giải đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 15 ngày, kế từ ngày lập biên bản nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không cỏ sự thay đểỉ ý kiến cũng như Viện Kiểm sát không cỏ phản đối sự thoả thuận đỏ, thì Tòa ản ra quyết định công nhận thuận tình li hôn mà không phải mở phiên Tòa khỉ có đầy đủ các điều kiện sau đầy:

- Hai bên thật sự tự nguyên ỉỉ hôn;

- Hai bên đã thoả thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giảo dục con;

- Sự thoả thuận của hai bền về tài sản và con trong trường hợp cụ thế này là bảo đảm quyền ỉợỉ chính đảng của vợ và con.

Qưyết định công nhận thuận tình lì hôn có hiệu lực pháp luật ngay, các bên không có quyền khảng cảo, Viện Kỉểm sát không có quyền khảng nghị theo trình tự phúc thấm.

b. Trong trường hợp hòa giải tại Tòa án mà thiếu một trong các điều kiện được nêu tại điếm a mục này thì Tòa án lập biên bản về việc hòa giải đoàn tụ không thành, về những vấn đề haỉ bên không thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm qưyền lợi chính đáng của vợ và con, đong thời tiến hành mở phiên Tòa xét xử vụ án li hôn theo thủ tục chung”.

Lưu ý: trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số trường hợp xin thuận tình li hôn giả tạo, lừa dối cơ quan pháp luật, nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Họ tự nghĩ ra những mâu thuẫn và lí do li hôn nhìn bề ngoài có vẻ chính đáng nhưng thực tế họ lại không mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa họ không hề có mâu thuẫn. Nếu không điều tra kĩ, dễ dẫn đến trường hợp Tòa án có thể kết luận là đã có đủ căn cứ để công nhận thuận tình li hôn. Như vậy, chúng ta đã “mắc lừa” họ và họ sẽ đạt được mục đích riêng như thuận tình li hôn giả nhằm chuyển hộ khẩu; phụ cấp người ăn theo; lấy vợ lẽ hoặc tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác...

Trong những trường hợp này, Tòa án cần xử bác đơn yêu cầu giải quyết việc li hôn của đương sự, đồng thời nghiêm khắc phê phán, giáo dục đương sự với những hành vi sai trái đó.

Trường hợp li hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu

- Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1. Khỉ vợ hoặc chồng yêu cầu li hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ỉỉ hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời song chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường họp vợ hoặc chồng của ngườỉ bị Tòa án tuyên bô mât tích yêu câu ỉỉ hôn thì Tòa ản giải quyết cho lỉ hôn.

3. Trong trường hợp cỏ yêu cầu lì hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa ản giải quyết cho lì hôn nếu cỏ can cứ về việc chồng, vợ có hành vỉ bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỉnh mạng, sức khỏe, tỉnh thần của người kìa ”.

Về nguyên tắc, Tòa án chỉ xét xử cho li hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thế kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Như vậy, giải quyết li hôn trong cả hai trường hợp vợ chồng thuận tình li hôn hoặc do một bên vợ, chồng yêu cầu li hôn đều giống nhau về bản chất. Bản án và quyết định li hôn của Tòa án đều là việc Tòa án xác nhận một cuộc hôn nhân đã “chết”, không thể tồn tại được nữa. Trong trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu li hôn thì chỉ có một bên vợ, chồng tự nguyện và nhận thức được quan hệ hôn nhân đã tan vỡ, còn bên kia - người chồng, vợ không muốn li hôn vì không nhận thức được mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng hoặc có thể nhận thức được nhưng lại xin đoàn tụ vì động cơ nào đó (như muốn gây khó khăn cho bên kia, coi đó là áp lực, là điều kiện trong quá trình li hôn).

Về trường hợp li hôn theo yêu cầu của một bên vợ, chồng, trước đây, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP hướng dẫn tại mục 10 như sau:

“a. Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu li hôn thì Tòa án phải tiến hành hỏa giải. Neu hòa giải đoàn tụ thành mà người yêu cầu xỉn ỉỉ hôn rủt đơn yêu cầu xin lì hôn thì Tòa án áp dụng điểm 2 Điều 46 Phảp lệnh thủ tục giải quyết các vụ ản dân sự, ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án (nay là điểm g khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).

Nếu người xin ỉỉ hôn không rút đơn yêu cầu xỉn li hôn thì Tòa án lập biên bản hòa giải đoàn tụ thành. Sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ỷ kiến cũng như Viện Kiểm sát không phản đối thì Tỏa án ra quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành. Quyết định công nhận hòa giải đoàn tụ thành có hiệu lực pháp luật ngay và các đương sự không cỏ quyền khảng cáo, Viện Kiểm sát không cỏ quyền khảng nghị theo trình tự phúc thẩm.

b. Trong trường họp hòa giải đoàn tụ không thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, đồng thời tiến hành mở phiên Tòa xét xử vụ án lì hôn theo thủ tục chung"

- Đối với trường hợp người vợ, chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích có yêu cầu li hôn, tại mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau:

“a. Theo quy định tại khoản 2 Điều 89 thì: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tỏa án tuyên bố mất tích xỉn lì hôn thì Tòa án giải quyết cho lỉ hôn ” (nay là khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Thực tiễn cho thấy có thế xảy ra hai trường họp như sau:

b. Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Tòa án giải quyết cho li hôn. Trong trường hợp này nếu Tòa ản tuyên bô người đỏ mất tích thì giải quyết cho ỉỉ hôn; nếu Tòa án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.

c. Người vợ hoặc người chồng đã bị Tòa ản tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, ỉợỉ ích liên quan. Sau khi bản án của Tỏa ản tuyên bo người vợ hoặc người chồng mất tích đã có hỉệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin li hôn vởi người đó. Trong trường hợp này Tòa án giải quyết cho lì hồn.

d. Khi Tòa án giải quyết cho lì hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cân chú ỷ giải quyết việc quản lí tài sản của người bị tuyên bố mất tỉch theo đúng quy định tạỉ Điều 89 Bộ luật Dẩn sự” (nay là Điều 69 Bộ luật Dân sự năm 2015)".

Ngoài ra, cần lưu ý là trong trường hợp hai vợ chồng thuận tình li hôn, sau khi điều tra, hòa giải, Tòa án xét thấy một bên vợ, chồng không tự nguyện li hôn (do bị cưỡng ép, bị lừa dối li hôn, hoặc do sĩ diện, tự ái dẫn đến việc thuận tình li hôn) thì Tòa án xử bác đon thuận tình li hôn, mà không giải quyết theo thủ tục một bên vợ, chồng có yêu cầu li hôn.

Đối với những trường họp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng kí kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu li hôn thì Tòa án thụ lí, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với trường hợp nam, nữ có đăng kí kết hôn nhưng việc đăng kí kết hôn lại được tiến hành ở cơ quan không đúng thẩm quyền (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) mà có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu li hôn thì Tòa án áp dụng Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ.

Đối với trường hợp khi giải quyết xử lí yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, cần lưu ý là tùy vào từng trường họp cụ thể để Tòa án giải quyết hủy hay không hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc giải quyết cho li hôn. Theo đó, đối với trường họp nam, nữ khi kết hôn mà vi phạm điều kiện kết nhưng sau đó đã có đủ điều kiện kết hôn, nếu hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho li hôn hoặc có một bên yêu cầu li hôn còn bên kia yêu cầu Tòa án công nhận hôn nhân thì Tòa án giải quyết cho li hôn.

Nguồn: Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam - Đại học Luật Hà Nội, 2021.

 

 

0 bình luận, đánh giá về Đường lối giải quyết các trường hợp li hôn theo luật định

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.41430 sec| 1051.898 kb