Hệ thống chính trị và Khái niệm nhà nước pháp quyền
I- Nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay bao gồm Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội hên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam và các to chức xã hội khác (Điều 4, Điều 9 Hiến pháp năm 2013).
Là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay có một số đặc điểm sau đây:
(i) Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay ra đời cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước Việt Nam mới, mặc dù nhiều tồ chức thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời trước Nhà nước như Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Hội nông dân...
(ii) Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay luôn có sự thống nhất cao về ý chí và hành động giữa các tổ chức thành viên. Tính thống nhất đó bắt nguồn từ sự thống nhất về kinh tế, chính trị, tư tưởng... Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. ÍCĐảỉỉg Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp câng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lêniỉỉ và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4 Hiến pháp năm 2013). Các tổ chức khác nhau trong hệ thống chính trị có mục đích chính trị riêng, tuy nhiên tất cả các tổ chức này đều gặp nhau ở mục tiêu cuối cùng là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
(iii) Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay là hệ thống chính trị đơn đảng. Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, chỉ tồn tại một đảng chính trị, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam; toàn bộ hệ thống chính trị đều đặt dưới sự lãnh đạo cửa Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là điều kiện quan trọng đảm bảo sự ổn định về chính trị của nước ta.
(iv) Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội khác như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Hội nông dân... là cơ sở chính trị của Nhà nước. Phần lớn các tổ chức này đều do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức nên trong cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức này được xem là chỗ dựa vững chắc về mặt chính trị cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức này cũng chịu sự tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ từ phía Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(v) Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay thể hiện tính dân chủ rộng rãi. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để tổ chức và vận hành hệ thống chính trị. Các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc dân chủ nhằm thực hiện có hiệu quả quyền lực của nhân dân.
(vi) Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tính tích cực chính trị của nhân dân luôn được phát huy. Đặc điểm này thể hiện ở việc nhân dân tích cực tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào những quyết sách chính trị lớn của đất nước và tích cực thực hiện những quyết sách chính trị đó; ủng hộ Nhà nước cả vật chất và tinh thần để giải quyết những vấn đề chính trị của đất nước; tích cực tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội...
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò chủ đạo đối với quản lí xã hội nhờ có những ưu thế riêng có của mình như các nhà nước đương đại khác. Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với Đảng và các tổ chức xã hội khác. Nội dung mối quan hệ đó thể hiện ở vai trò của hai bên đối với nhau.
Trong quan hệ giữa Nhà nước với Đảng Cộng sản Việt Nam thì Nhà nước là phương tiện quan trọng nhất để đưa đường lối,chính sách của Đảng vào cuộc sống thông qua ba hình thức hoạt động chủ yếu là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật nhằm thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đặt ra là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lí, vật chất, tinh thần cho Đảng hoạt động và bảo vệ uy tín, danh dự, sinh mệnh của Đảng trước âm mưu và hành động phá hoại của các lực lượng thù địch.
Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước”. Đảng lãnh đạo một cách toàn diện từ tổ chức đến các hoạt động của nhà nước. Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước bằng việc Đảng vạch ra đường lối chiến lược về đối nội, đối ngoại để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Nhà nước, giới thiệu đảng viên và người ngoài đảng đủ năng lực và phẩm chất để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bố trí vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước hoặc để cử tri bầu vào các cơ quan dân cử trực tiếp; thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong cho cán bộ, đảng viên và người ngoài Đảng làm việc trong bộ máy nhà nước; kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước; chỉ đạo công cuộc cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước và cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước hiện nay. Các phương pháp chủ yếu mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Nhà nước là tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục và tự nêu gương của đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước.
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng trên cơ sở phân định rõ chức năng của Nhà nước với chức năng của Đảng có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước phát huy hết hiệu lực của mình nhưng vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng, còn Đảng vẫn lãnh đạo được Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Việc phân định đó chỉ có thể được thực hiện bằng công cụ pháp luật mới bảo đảm được sự chắc chắn và bền vững.
Quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội khác là quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau. Đó là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và quy chế phối hợp công tác giữa các bên.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Các tổ chức Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội khác tham gia xây dựng bộ máy nhà nước; kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, nhân viên nhà nước; tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, phản biện, đóng góp ý kiến đối với chính sách, pháp luật của nhà nước; kiến nghị với nhà nước về những vấn đề liên quan; thực hiện quản ỉí nhà nước trong những trường họp được giao; tuyên truyền giáo dục pháp luật đối với hội viên của mình; cùng với cơ quan nhà nước, tố chức lãnh tế, tố chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên tổ chức mình cũng như của nhân dân...
Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lí cho việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội; tạo điều kiện cho các tổ chức đó tham gia quản lí nhà nước và xã hội; cung cấp các phương tiện vật chất, kĩ thuật và tạo các điều kiện thuận lợi khác về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ pháp luật cho nó hoạt động; kiểm tra giám sát hoạt động của nó; bảo vệ các tổ chức đó trước những hành vi xâm hại từ phía cá nhân, tổ chức khác; xử li những tổ chức cũng như thành viên của tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật; xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị của các tổ chức đó...
Để củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội thì Nhà nước cần luôn luôn đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp quản lí các tổ chức xã hội, sao cho Nhà nước vẫn quản lí được các tổ chức đó bằng pháp luật nhung lại không can thiệp vụn vặt, quá mức cần thiết vào tổ chức và hoạt động của họ; chống mọi biểu hiện “hành chính hoá” tổ chức xã hội; hoàn thiện chính sách, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tố chức xã hội; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tố chức xã hội; xử lí kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng mọi vi phạm pháp luật của các tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức ẩy; thường xuyên tổng kết việc quản lí các tổ chức xã hội bằng pháp luật để thấy được ưu điểm để phát huy và nhận ra nhược điểm để khắc phục. Các tổ chức xã hội cũng cần đổi mới tổ chức theo hướng gọn, nhẹ, tinh thông và hiệu quả; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động để lôi cuốn tất cả thành viên vào mọi hoạt động của tổ chức; tham gia tích cực hơn nữa vào xây dựng, củng cố, hoàn thiện, bảo vệ Nhà nước, vào công tác xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo đức cách mạng cho tất cả các thành viên nhằm bồi dưỡng và nâng cao lập trường chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ văn hoá và lối sống của con người mới; thường xuyên tổng kết việc tham gia quản lí nhà nước, quản lí xã hội để rút ra bài học kinh nghiệm cho các hoạt động sau.
II- Khái niệm nhà nước pháp quyền
Trong lịch sử tư tưởng chính trị pháp lí của nhân loại, tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành từ thời cổ đại. Ngay từ thời cổ đại, khi con người bị đặt dưới sự cai trị tùy tiện, độc đoán của nhà cầm quyền thì cũng là lúc trong xã hội xuất hiện ý tưởng về một nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, cai trị, quản lí xã hội bằng pháp luật, cả vua, quan cũng như dân chúng đều phải tôn trọng pháp luật, phục tùng pháp luật... Sau hàng nghìn năm dưới những “đêm trường trung cổ”, bước sang thời kì phục hưng, tư tưởng nhà nước pháp quyền tiếp tục được phát triển, hoàn thiện. Thời kì này, tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội luôn gắn liền với tư tưởng dân chủ, khẳng định chủ quyền nhân dân, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của nhà cầm quyền, bảo đảm bảo vệ quyền con người... Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời kì này một mặt khẳng định vai trò của pháp luật, nhưng mặt khác nhấn mạnh tính chất của pháp luật, đòi hỏi pháp luật phải dân chủ, tiến bộ, phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân, pháp luật phải phù hợp với quyền tự nhiên của con người.
Từ cuối thế kỉ XIX trở lại đây, tư tưởng nhà nước pháp quyền từng bước được hiện thực hoá, nhà nước pháp quyền trở thành một mẫu hình nhà nước lí tưởng, một xu thế tất yếu cần hướng tới của tất cả. các nhà nước dân chủ trên thế giới, một mô hình cho việc thiết kế và xây dựng nhà nước của các quốc gia đương đại. Có thể nói, cho đến nay, “sự phát triển của văn minh nhân loại phần lớn được quy định bởi sự phát trỉến của xã hội công dân và nhà nước pháp quyền"
Chính vì vậy, trong thời kì hiện đại, vấn đề nhà nước pháp quyền được nghỉên cứu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới nhằm xây dựng co sỏ' lí luận vững chắc cho việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước theo xu hướng trở thành nhà nước pháp quyền, vấn đề đặt ra, nhà nước pháp quyền là gì, nó có những đặc trưng nào, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó ra sao... Đây là những câu hỏi có thể được trả lời theo nhiều cách khác nhau, bởi vì nhà nước pháp quyển vốn là hiện tượng phức tạp, đa diện, có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. (The Rule of law), tuỳ theo ngôn ngữ của mỗi nước. Tuy nhiên, trên thực tế, hai thuật ngữ này vừa có điểm thống nhất vừa có điểm khác biệt nhau. Sự thống nhất giữa chúng thể hiện ở chỗ cả “nhà nước pháp quyền” và “chế độ pháp quyền” đều bắt nguồn từ những nguyên tắc cơ bản là: tính phổ biến của các chuẩn mực pháp lí, pháp luật phải công khai, các chuấn mực pháp lí phải rõ ràng và không hồi tố. Điểm khác nhau giữa chúng là ở chỗ “chế độ pháp quyền” có xu hướng nhấn mạnh nhiều hon đến sự tham gia của người dân vào một quá trình chính trị có trật tự mà không đề cập rõ ràng đến nhà nước, còn thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” thì nhấn mạnh đến nhà nước, chỉ các đặc trưng cụ thể của một nhà nước nào đó.
Trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở các nước trên thế giới, có thể thấy khá nhiều quan niệm về nhà nước pháp quyền. Chẳng hạn, “Nhà nước pháp quyền là một nhà nước gắn chặt với pháp luật và được hợp pháp hoá bởi pháp luật”? 'Nhà nước pháp quyền là toàn thể một quốc gia có trách nhiệm thực hiện công lí, phục tùng pháp luật và quan tâm đặc biệt đến việc tôn trọng các quyền của con người và nguyên tắc tương ứng"
Ở Việt Nam, quan niệm về nhà nước pháp quyền cũng khá phong phú. Chẳng hạn, có tác giả quan niệm rằng, nhà nước pháp quyền “là Nhà nước thừa nhận tất cả các đạo luật và văn bản dưới luật do cơ quan lập pháp và Chỉnh phủ (trong khuôn khổ thẩm quyền của nó) đặt ra, đó là Nhà nước bị hạn chế bằng pháp luật, Nhà nước đứng trong pháp luật, chứ không phải Nhà nước đứng ngoài hoặc đứng trên pháp luật”? Tác giả khác lại quan niệm rằng, 'Nhà nước pháp quyền là tổ chức công quyền trong hệ thống chính trị của xã hội công dân được xây dựng trên nên tảng các tư tưởng pháp lí tiến bộ của nhân loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo thực sự những giá trị xã hội được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới - sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, sự phần công quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và chủ quyền nhân dân...
Từ những quan niệm nêu trên cũng như xuất phát từ biểu hiện của những nhà nước pháp quyền trong thực tiễn, có thể khẳng định, nhà nước pháp quyền trước tiên phải là nhà nước theo đúng nghĩa của từ này - tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, tổ chức công quyền của xã hội. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước có cách thức tổ chức và hoạt động hoàn toàn khác các nhà nước độc tài, chuyên chế, nhà nước cai trị. Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đó là hệ thống pháp luật dân chủ, phản ánh công lí, phù hợp với quyền tự nhiên của con người. Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ quyền nhân dân, có cơ chế phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người, tự do cá nhân. Nhà nước pháp quyền là công cụ để phục vụ xã hội, phục vụ con người, mang lại lợi ích cho công dân, bảo vệ tự do cá nhân và công bằng xã hội. Nhà nước cũng như các chủ thể khác trong xã hội đều luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Tóm lại, có thế hiếu: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tố chức, hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng và cảc nguyên tắc chủ quyền nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân, công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Luật sư: Nguyễn Thị Bích Phượng - Trưởng phòng Doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (từ Giáo trình Lý Luận chung về nhà nước và pháp luật - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).



TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm