Căn cứ xác lập giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự và nghĩa vụ dân sự?
Nội dung bài viết
- 1- Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là gì?
- (i) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ hợp đồng
- (ii) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ hành vi pháp lý đơn phương
- (iii) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ việc thực hiện công việc không có ủy quyền
- (iv) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
- (v) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ việc gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật
- 2- Giao dịch dân sự được quy định như nào?
- 3- Quy định về hợp đồng dân sự
- 4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
1- Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là gì?
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể thuộc bên có nghĩa vụ phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác có quyền. Căn cứ vào Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ sau:
(i) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ hợp đồng
Hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, cho thuê, mượn tài sản hoặc về việc thực hiện một công việc, theo đó làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong hợp đồng. Với tính chất này, khi các bên thỏa thuận nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nhau thì đây sẽ là căn cứ hình thành nghĩa vụ.
(ii) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ hành vi pháp lý đơn phương
Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi của cá nhân thể hiện ý chí tự do, tự nguyện, tự định đoạt của bản thân nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Khi một người thực hiện một hành vi pháp ký đơn phương thì có thể làm phát sinh nghĩa vụ của người đó với người khác hoặc phát sinh nghĩa vụ của người khác với người thứ ba.
(iii) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ việc thực hiện công việc không có ủy quyền
Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối
(iv) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
Khi một người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của người đó kể từ khi người đó có khoản lợi trong tay. Từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc được lợi thì phải hoàn trả khoản lợi mà mình đã thu được.
(v) Căn cứ phát sinh nghĩa vụ từ việc gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật
Thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật sẽ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. Trong quan hệ này, bên gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bên bị thiệt hại.
2- Giao dịch dân sự được quy định như nào?
(i) Giao dịch dân sự được hiểu như nào?
Căn cứ vào Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch dân sự được hiểu là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ quy định này, ta thấy giao dịch dân sự được xác định là kết quả của việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý, (có thể là hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương, tức là có thể là hành động của một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lý. Tùy từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (theo Điều 118 Bộ luật Dân sự năm 2015). Mục đích của giao dịch dân sự chính là hậu quả pháp lý sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Nói cách khác, mục đích ở đây luôn mang tính pháp lý nên được gọi là mục đích pháp lý. Mục đích pháp lý đó sẽ trở thành hiện thực, nếu như các bên trong giao dịch thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Mục đích pháp lý của giao dịch khác với động cơ xác lập giao dịch. Động cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch. Động cơ của giao dịch không mang tính pháp lý. Khi xác lập giao dịch, nếu như động cơ không đạt được thì điều đó cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch. Mục đích luôn luôn được xác định còn động cơ có thể được xác định hoặc không. Ví dụ: Mua bán nhà ở thì mục đích của người mua là quyền sở hữu nhà, còn động cơ có thể để ở, có thể để cho thuê, có thể là chuyển nhượng lại cho người khác, ... Tuy nhiên, động cơ của giao dịch có thể được các bên thỏa thuận và mang ý nghĩa pháp lý. Trong trường hợp này động cơ đã trở thành điều khoản của giao dịch, là một bộ phận cấu thành của giao dịch đó, như: cho vay tiền để sản xuất thì mục đích của người vay là quyền sở hữu số tiền nhưng họ chỉ được dùng tiền đó để sản xuất mà không được sử dụng vào hoạt động khác.
Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lý quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên trong xã hội.
(ii) Một số lưu ý về giao dịch dân sự
- các loại giao dịch dân sự
Hợp đồng dân sự: là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của 02 hay nhiều bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Thông thường, hợp đồng chỉ có hai bên tham gia với sự thống nhất ý chí của cả hai chủ thể trong một quan hệ cụ thể như: hợp đồng mua bán, cho thuê, ... hoặc có nhiều bên cùng tham gia hợp đồng như: tổ hợp tác, hộ gia đình, ... Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia.
Hành vi pháp lý đơn phương: là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất, như: lập di chúc, từ chối hưởng thừa kế, ... Đồng thời, cũng có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia vào một bên của giao dịch, ví dụ như hai cá nhân, tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng, ... Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và hình thức phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Giao dịch dân sự có điều kiện: là một loại giao dịch, trong đó, hiệu lực của nó phát sinh hoặc hủy bỏ phụ thuộc vào sự kiện nhất định. Khi sự kiện đó xảy ra thì giao dịch phát sinh hoặc hủy bỏ. Sự kiện được coi là điều kiện của giao dịch phải do chính người xác lập giao dịch định ra (trong hợp đồng thì điều kiện đó do chính các bên thỏa thuận). Nó phải là sự kiện thuộc về tương lai. Sự kiện đó xảy ra hay không xảy ra không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các chủ thể trong giao dịch. Sự kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch phải hợp pháp.
-
chủ thể tham gia giao dịch
Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác: Các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ, có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Người đại diện xác lập giao dịch dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định.
- chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện và mục đích, nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
Giao dịch dân sự được giao kết dựa trên sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, vậy nên dự tự nguyện của một bên được gọi là hành vi pháp lý đơn phương hoặc sự tự nguyện của các bên trong một mối quan hệ dân sự là một trong những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 là "Tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận". Vì vậy, giao dịch dân sự thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Và giao dịch dân sự sẽ vô hiệu khi mà giao dịch đó được xác lập do giả tạo; do nhầm lẫn; do bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép; do xác lập tại thời điểm mà không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó, còn nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch. Những điều khoản này xác định quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ với nhau.
- hình thức giao dịch phù hợp với quy định của luật
Hình thức giao dịch dân sự bằng văn bản: Văn bản thường: Được áp dụng trong trường hợp các bên tham gia giao dịch dân sự thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch dân sự phải thể hiện bằng hình thức văn bản. Nội dung giao dịch dân sự được thể hiện trên văn bản có chữ ký xác nhận của các chủ thể cho nên hình thức này là chứng cứ xác định chủ thể đã tham gia vào một giao dịch dân sự rõ ràng hơn so với trường hợp giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói; Văn bản có công chứng chứng nhận, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực: Được áp dụng trong những trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự bắt buộc phải được lập thành văn bản hoặc các bên có thỏa thuận phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép thì khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó (mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất...); Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử cũng được coi là giao dịch bằng văn bản.
Hình thức giao dịch bằng hành vi: Giao dịch dân sự có thể được xác lập thông qua những hành vi nhất định theo quy ước định trước. Đây là hình thức giản tiện nhất của giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự có thể được xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên tại nơi giao kết. Hình thức này càng ngày càng trở nên phổ biến, nhất là tại những quốc gia có nền công nghiệp tự động hoá phát triển.
3- Quy định về hợp đồng dân sự
Hợp đồng là sự thảo thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung được thể hiện trong hợp đồng dân sự, cụ thể qua các nội dung sau: Đối tượng của hợp đồng; Số lượng, chất lượng; Giá, phương thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nghiệm do vi phạm hợp đồng; Phương thức giải quyết tranh chấp.
Hiện nay, có 06 loại hợp đồng chủ yếu như sau:
- Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau
- Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ
- Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ
- Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính
- Hợp đồng là vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó
- Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.
Về quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì được quy định như sau:
- Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
- Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện.
- Bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.
- Trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn cứ thì bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan do không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng.
4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
(i) Bài viết trong lĩnh vực pháp …. được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
(ii) Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
(iii) Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 024 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm