
Tội tổ chức tảo hôn
Hành vi tổ chức tảo hôn bị coi là tội phạm khi người thực hiện đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Tội phạm này xâm phạm nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là hôn nhân tiến bộ. Theo nguyên tắc này, việc kết hôn của hai bên nam nữ phải tuân thủ điều kiện về tuổi kết hôn, nhằm đảm bảo người kết hôn đã có sự phát triển đầy đủ về mọi mặt và nhận thức được trách nhiệm đối với gia đình, với xã hội cũng như có khả năng tự chủ được cuộc hôn nhân của mình.

Tranh chấp ly hôn, những vấn đề cần lưu ý
Dù là ly hôn thuận tình hay ly hôn đơn phương thì việc tranh chấp tài sản và giành quyền nuôi con luôn là cuộc chiến của đa số những cặp vợ chồng hết duyên. Để việc ly hôn trả lại tự do cho nhau không bị kéo dài, các cặp vợ chồng nên nhờ luật sư tư vấn hay sử dụng dịch vụ giải quyết tranh chấp tài sản và giành quyền nuôi con tại công ty Luật Everest.

Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
(Từ Điều 33 đến Điều 46; từ Điều 59 đến Điều 64 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014)
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000); Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là chế độ cộng đồng tạo sản, giữa vợ chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng.

Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định có hai loại chế độ tài sản của vợ chồng: chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (từ Điều 47 đến Điều 50 và Điều 59) và chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64)

Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật một số nước trên thế giới
Thực tiễn ban hành và áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình của các nước trên thế giới cho thấy, nhà làm luật luôn mong muốn bằng pháp luật duy trì quan hệ hôn nhân và gia đình như một thiết chế xã hội vững chắc, bền vững, làm nền tảng cho một xã hội ổn định, phát triển. Vì mục đích đó, các quan hệ hôn nhân và gia đình ngày càng được điều chỉnh với các chế định pháp luật chặt chẽ. Trong đó, chế độ tài sản của vợ chồng luôn đóng một vai trò quan trọng, có ý nghĩa pháp lý và xã hội sâu sắc đối với gia đình và xã hội.

Quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên khác trong gia đình
Với tư cách là thành viên gia đình, các thành viên của gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau. Trong trường hợp sống chung thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp công sức, tiền hoặc tài sản khác để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình. Đó cũng chính là trách nhiệm của các thành viên gia đình đối với gia đình. Quy định này có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hòa thuận, hạnh phúc và bền vững.

Chế độ tài sản của vợ chồng của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/9/1945). Tính tất yếu khách quan đòi hỏi cần phải có một hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo thời gian, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng cũng như thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) theo hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng dần được hoàn thiện.

Chế độ tài sản của vợ chồng ở miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước (giai đoạn 1954 đến 1975)
Chế độ tài sản của vợ chồng theo các văn bản pháp luật ở miền Nam nước ta trước ngày giải phóng (giai đoạn 1954 - 1975) đã được nhà làm luật dự liệu tương đối cụ thể: Vợ chồng có quyền tự do lập hôn ước, thoả thuận về vấn đề tài sản của vợ chồng nhằm duy trì trong suốt thời kỳ hôn nhân. Nếu không lập hôn ước, chế độ tài sản cộng đồng pháp định sẽ được áp dụng cho hai vợ chồng. Những văn bản pháp luật trên đây đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản (Luật Gia đình năm 1959) hoặc chế độ cộng đồng động sản và tạo sản (Sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972) với những thành phần tài sản, phạm vi quản lý, định đoạt tài sản và việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, có những nội dung khác nhau. Đặc biệt, cả ba văn bản luật này vẫn bảo vệ quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình, vì vậy, quan hệ bất bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng vẫn tồn tại trong pháp luật và thực tế đời sống xã hội.

Quyền và nghĩa vụ về tài sản, nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con
Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa cha mẹ và con được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định là quyền quan trọng, thể hiện nét đặc trưng của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con là một quyền tài sản quan trọng được Luật Hôn nhân và gia đình quy định. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Ngược lại, con cũng có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật, trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau nuôi dưỡng cha mẹ.