Khái niệm kết hôn
Nội dung bài viết
1- Khái niệm kết hôn
Theo lẽ tự nhiên, nam, nữ đến tuổi trưởng thành có nhu cầu tìm kiếm bạn đời, kết hôn và cùng nhau chung sống. Kết hôn là khởi đầu của quan hệ hôn nhân, gắn bó cuộc đời của hai con người với nhau. Kết hôn làm hình thành gia đình, ở đó, vợ, chồng cùng nhau chia sẻ, chăm lo đời sống chung và đặc biệt, quan hệ ấy sản sinh ra thế hệ con cái, tức là thực hiện chức năng xã hội là tái sản xuất ra con người để duy trì nòi giống, duy trì sự tồn tại của xã hội. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng như vậy, kết hôn luôn được coi là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời của mỗi con người và cả gia đình.
Từ khi xã hội có nhà nước, pháp luật của các quốc gia đều quan tâm điều chỉnh việc kết hôn của nam, nữ nhằm bảo đảm việc kết hôn phải theo một trật tự nhất định. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với việc kết hôn là cần thiết bởi vì nó không chỉ liên quan đến hai người kết hôn mà còn liên quan đến lợi ích của người khác, của gia đình và trật tự xã hội. Pháp luật ở các chế độ xã hội khác nhau quy định Về kết hôn khác nhau. Pháp luật hiện đại, dân chủ ở các quốc gia ngày nay. Về cơ bản quy định Về quyền kết hôn dựa trên cơ sở tôn trọng ý chí của người kết hôn.
Công ước quốc tế Về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và pháp luật của các quốc gia đều ghi nhận kết hôn là một trong những quyền dân sự cơ bản của cá nhân. Khi nam, nữ có đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, họ có quyền tự do kết hôn với người mà mình yêu. Tuy nhiên, do việc kết hôn không chỉ phát sinh hậu quả đối với hai người kết hôn mà còn liên quan đến người khác, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, luân thường đạo lí nên quyền tự do kết hôn của cá nhân phải được đặt trong những giới hạn cần thiết theo nguyên tắc không được xâm phạm lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội. Chẳng hạn, việc kết hôn giữa anh, chị, em con chú, con bác vừa gây ra hậu quả xấu đối với con cái, vừa xâm phạm nghiêm trọng đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Do đó, quyền tự do kết hôn của nam, nữ chỉ được thực hiện trong những điều kiện do pháp luật quy định và phải thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tại khoản 5 Điều 3 đưa ra giải thích về kết hôn như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này Về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn". Quy định này thể hiện 04 nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của hành vi kết hôn, gồm một bên là nam và bên kia là nữ, tức là hai người khác giới tính với nhau. Đây là quan điểm của nhà nước ta Về hôn nhân, phù hợp với quan niệm chung của xã hội Việt Nam cũng như ở phần lớn các quốc gia hiện nay. Thể hiện rõ ràng quan điểm này, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (Khoản 2 Điều 8).
Thứ hai, bản chất của kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng. Hai bên nam, nữ kết hôn là nhằm gắn bó cuộc sống của họ với nhau lâu dài (mong muốn đến hết đời), xây dựng gia đình (thiết chế ổn định của xã hội), sinh con và nuôi dạy con. Đây là một sự liên kết đặc biệt. Do đó, nếu nhìn nhận việc kết hôn là một sự thỏa thuận giữa nam và nữ. Về việc xác lập một quan hệ pháp lí thì cũng cần phải nhận thấy đầy đủ tính đặc biệt của nó, để có sự phân biệt cần thiết với những thỏa thuận khác vốn được coi là hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự.
Thứ ba, nam, nữ chỉ có quyền kết hôn khi có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Những điều kiện này là cần thiết để bảo đảm quyền lợi của các bên kết hôn, của con cái, gia đình và xã hội.
Thứ tư, việc kết hôn được thực hiện thông qua thủ tục đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Xác định việc kết hôn không chỉ liên quan đến các bên kết hôn mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của người khác, của gia đình và xã hội nên Nhà nước cần phải kiểm soát việc kết hôn thông qua thủ tục đăng ký kết hôn. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng kí kết hôn có trách nhiệm kiểm tra điều kiện kết hôn, nếu các bên có đủ điều kiện kết hôn thì đăng kí kết hôn, trao giấy chứng nhận kết hôn cho họ và ghi việc kết hôn vào sổ hộ tịch theo quy định của pháp luật Về hộ tịch. Việc kết hôn chỉ có giá trị pháp lí khi được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và có hiệu lực từ ngày đăng kí. Việc đăng kí kết hôn được thực hiện công khai, qua đó, Nhà nước kiểm soát việc kết hôn, bảo đảm lợi ích của bản thân người kết hôn cũng như lợi ích của người khác có liên quan, của gia đình và xã hội. Thực chất, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì chỉ khi nào nam và nữ đã đăng kí kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì mới được coi là đã kết hôn. Việc hai bên nam, nữ tổ chức hôn lễ tại gia đình, tại nhà thờ hay nơi khác không bị coi là trái pháp luật nhưng không có giá trị pháp lí.
Xem thêm: Điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng hôn nhân
2 - Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Khái niệm kết hôn được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Khái niệm kết hôn có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.


TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm