Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
"Bất công ở bất cứ đâu cũng là mối đe dọa cho công lý ở mọi nơi".
– Martin Luther King
Qua nhiều năm tồi tại và phát triển, các nhà kinh doanh đã sáng tạo ra các loại hình công ty khác nhau, có những loại hiện vẫn tồn tại và phát triển, có những loại không phát triển và có xu hướng mất dần. Trong giáo tành này chỉ giới thiệu những loại hình công ty phổ biến hiện đang tồn tại và phát triển. Có nhiều căn cứ để phân loại công ty. Nếu căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà lập pháp, dưới góc độ pháp lí người ta chia công ty thành hai loại cơ bản là: Công ty đối nhân và công ty đối vốn.
Công ty đối nhân là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của căc thành viên, các thành viên có quan hệ gần gũi, tin tưởng nhau mà lập ra “góp danh”, sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân có đặc điểm quan trọng là không có sự tách bạch về tài sản cá nhân các thành viên và tài sản của công ty. Các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty hoặc ít nhất phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các thành viên có tư cách thương gia độc lập và chịu thuế thu nhập cá nhân, bản thân công ty không bị đánh thuế. Hầu hết pháp luật các quốc gia đều không quy định tư cách pháp nhân cho công ty đối nhân, nó xuất hiện giao dịch với bên ngoài với tính chất cá nhân, song nó khác cá nhân ở chỗ là các thành viên khi giao dịch với bên ngoài đều nhân danh “hãng” chung công ty. Các thành viên công ty cùng nhau điều hành hoạt động của công ty và đều có quyền đại diện theo pháp luật.
Về phương diện kinh tế, các công ty đối nhân do tính liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên nên họ có thể được các ngân hàng dễ dàng cho vay vốn. Mặt khác, do tính liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên các công ty đối nhân thường không đầu tư vào khu vực có nhiều rủi ro, trong thực tế công ty đối nhân thường hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi độ tin cậy giữa các thành viên, trình độ chuyên môn cao như: dịch vụ pháp lí, kiểm toán, kiến trúc, giám định...
về phương diện pháp lí, công ty đối nhân là loại hình công ty trong đó các thành viên có quan hệ gắn bó, hiểu biết và tin tưởng nhau do đó pháp luật rất ít quy định bắt buộc đối với họ.
Công ty đối nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản: (i) Công ty hợp danh và (ii) Công ty hợp vốn đơn giản.
Công ty hợp danh là loại hình công ty, trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh hay còn gọi là công ty góp danh là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân. Xét về mặt lịch sử thì công ty hợp danh ra đời sớm nhất, bởi lẽ khi con người biết hành nghề thương mại thì có lẽ lúc ban đầu họ kinh doanh đơn lẻ (từng cá nhân). Sau này do nhu cầu kinh doanh cần phải liên kết thì họ phải lựa chọn những người thân, quen và phải thật tin tưởng để cùng nhau kinh doanh.
Trên thực tế, công ty này được thành lập trong dòng họ gia đình. Do tính chất liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên các thành viên phải thật sự hiểu biết nhau, tin tưởng nhau “sống chết có nhau”. Điều đó phản ánh tâm lí của các nhà kinh doanh khi hùn vốn với nhau để kinh doanh. Các nhà kinh doanh ưa thích mô hình hợp danh hơn là kinh doanh đơn độc theo mô hình cá nhân kinh doanh.
Việc thành lập công ty dựa trên cơ sở hợp đồng giữa các thành viên. Hợp đồng thành lập công ty nói chung được lập thành văn bản, tuy nhiên, luật không bắt buộc phải làm như vậy. Các bên có thể thoả thuận miệng, thậm chí không cần tuyên bố rõ, mà chỉ cần có những hoạt động thương mại chung thì công ty cũng được coi là đã thành lập. về nguyên tắc, hợp đồng thành lập phải được đăng kí vào danh bạ thương mại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hợp đồng tuy không được đăng kí nhưng được thông báo rộng rãi thì vẫn có giá trị pháp lí.
Trong hợp đồng, điều quan trọng là sự thoả thuận về trách nhiệm của các thành viên. Một công ty hợp danh được thành lập nếu ít nhất có hai thành viên thoả thuận với nhau cùng chịu trách nhiệm liên đới vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty.
Công ty hợp danh có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, cũng như đặc tính chung của các công ty đối nhân, mỗi thành viên trong công ty hợp danh đều có phần của mình trong công ty gọi là phần lợi. Phần của mỗi người tương ứng với phần vốn góp của họ vào công ty. Phần vốn góp của các thành viên có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau và có đặc tính là không được tự do chuyển nhượng.
Thứ hai, Công ty hợp danh phải hoạt động dưới một hãng chung, mặc dù vậy các thành viên đều có tư cách thương nhân. Các thành viên kết hợp cái “danh tính” của mình thành ra hội danh tức là cái danh tính của công ty. Vì vậy, các thành viên phải có năng lực cần thiết, các thành viên phải ghi tên vào danh bạ thương mại. Khi công ty bị phá sản thì các thành viên cũng bị phá sản thương nhân.
Thứ ba, trong công ty hợp danh, các thành viên chịu trách nhiệm bản thân, liên đới vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Điều đó được thể hiện như sau:
- Các thành viên chịu trách nhiệm một cách trực tiếp, cơ bản, vì chủ nợ có quyền đòi bất kì ai với toàn bộ số tiền nợ.
- Trách nhiệm này không thể bị giới hạn đối với bất kì thành viên nào. Neu họ có thoả thuận khác, lập tức công ty sẽ chuyển sang loại hình công ty hợp vốn đơn giản.
- Trong công ty hợp danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản công ty và tài sản cá nhân. Sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với khối tài sản chung sang tài sản riêng rất đơn giản và nói chung khó kiểm soát, về nguyên tắc, ngay khi một thành viên chưa được hưởng chút lợi nhuận nào thì vẫn phải chịu trách nhiệm. Vì vậy, khả năng rủi ro và nguy hiểm đối với từng thành viên là rất lớn.
Tuy nhiên, lợi thế của công ty này là khả năng dễ dàng được ngân hàng cho vay vốn hoặc hoãn nợ, bởi tính chịu trách nhiệm vô hạn đã là sự bảo đảm. Do tính an toàn pháp lí đối với công thuận, quy định ràng buộc duy nhất là tính chịu trách nhiệm vô hạn. về tổ chức, công ty hợp danh rất đơn giản. Các thành viên có quyền thoả thuận trong hợp đồng về việc tổ chức, điều hành, đại diện của công ty. Công ty hợp danh được tổ chức dưới hình thức một hãng chung. Hãng này thường mang tên một thành viên hoặc tất cả thành viên. Hầu hết pháp luật các nước đều quy định công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân (Luật Doanh nghiệp năm 2014 của Việt Nam quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân). Dưới hình thức một hãng, công ty hợp danh có tư cách thương gia độc lập, mỗi thành viên hợp danh vẫn có tư cách thương gia riêng, các thành viên kết hợp danh tính của mình mà thành ra “hội danh” tức là cái danh tính của công ty. Các thành viên có thể cùng nhau điều hành và đại diện cho công ty hoặc thoả thuận phân công trách nhiệm về quyền đại diện cho từng người. Vấn đề góp vốn, luật không quy định vốn tối thiểu các bên có quyền thoả thuận các hình thức góp vốn (bằng tiền, hiện vật, các bản quyền...) thậm chí “vốn góp” chỉ là uy tín kinh doanh của cá nhân. Trong công ty hợp danh, việc thay đổi thành viên là rất khó khăn, chỉ cần một thành viên chết, xin ra khỏi công ty là lí do quan trọng để công ty giải thể, điều đó được lí giải bởi bản chất đối nhân của loại công ty này.
Công ty hợp vốn đơn giản là loại hình công ty có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên nhận vốn), còn những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (thành viên góp vốn).
Công ty hợp vốn đơn giản về cơ bản giống công ty hợp danh, điểm khác biệt cơ bản so với công ty hợp danh là công ty hợp vốn đơn giản có 2 loại thành viên với những địa vị pháp lí khác nhau.
- Thành viên nhận vốn (hay còn gọi là thành viên quản trị) là người quản lí, sử dụng vốn, người trực tiếp điều hành các hoạt động của công ty. Thành viên này chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty, có quyền quản trị công ty, đại diện cho công ty trong các quan hệ đối ngoại, thành viên nhận vốn chỉ là cá nhân. Họ có quyền lấy tên của mình để đặt tên cho công ty, bởi họ là thương nhân.
- Thành viên góp vốn là người bỏ vốn ra cho công ty kinh doanh với mong muốn được chia lợi nhuận. Thông thường, tên của các thành viên góp vốn cũng không công khai trong danh bạ thương mại của công ty mà chỉ có trong hợp đồng thành lập công ty, họ không có tư cách thương nhân. Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Việc góp vốn của thành viên này chủ yếu là bằng tiền mặt, tuy nhiên họ cũng có thể góp vốn bằng tài sản hiện vật nhưng không thể góp vốn bằng các giá trị tinh thần như uy tín trong kinh doanh, công lao... Loại vốn góp này chỉ dành cho các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn mà thôi. Thành viên góp vốn không có quyền đại diện cho công ty trong các quan hệ đối ngoại, nếu họ đứng ra thay mặt công ty thực hiện các giao dịch thì sẽ mất quyền hưởng TNHH. Thành viên góp vốn chỉ có quyền trong quan hệ nội bộ của công ty. Tên hãng của công ty hợp vốn đơn giản cũng chỉ ghi tên của thành viên nhận vốn. Sự ra đời của công ty họp vốn đơn giản đã đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư, một khi họ không muốn vào công ty họp danh do tính chịu trách nhiệm vô hạn của tất cả các thành viên.
Theo các nhà nghiên cứu về công ty thì công ty hợp vốn đơn giản có mầm mong từ thời Trung cổ và thịnh hành nhất ở Italia do sự phát triển của thương mại hàng hải. Ở Pháp, từ năm 1673 đã có luật lệ quy định về công ty này. Theo đó, khi thành lập công ty, bắt buộc các đương sự phải làm hợp đồng viết, trong đó phải phân biệt rõ tư cách thành viên “thủ tư” (người nhận vốn) và thành viên “xuất tư” (người góp vốn). Sự phân biệt này là bắt buộc đế các đối tác của công ty không bị nhầm lẫn về trách nhiệm giừa hai loại thành viên.
Sự ra đời của loại hình công ty này cũng rất thú vị, thoạt tiên là để đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp giàu có trong xã hội (giới quý tộc) như: Tầng lớp quý tộc, quan toà, thầy tu, những người có địa vị cao trong xã hội muốn bỏ tiền ra kinh doanh kiếm lời nhưng không muốn xuất đầu, lộ diện trước công chúng với tư cách là một thương nhân. Những người này vì địa vị xã hội cao quý, vì quy chế nghề nghiệp không cho phép họ hành nghề thương mại. Bên cạnh đó có một lí do nữa là có những người không muốn vào công ty họp danh do tính chịu trách nhiệm liên đới vô hạn của các thành viên.
Công ty hợp vốn đơn giản đã từng “một thời vang bóng” cùng với công ty hợp danh, đã góp phần đáp ứng nhu cầu cho nhiều người có tài kinh doanh nhưng lại ít vốn, những người có nhiều tiền nhưng lại không có điều kiện để trực tiếp kinh doanh. Công ty hợp vốn đơn giản ra đời tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác có hiệu quả giữa các tầng lớp người trong xã hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển của thương mại và sự xuất hiện của CTCP, thì loại công ty này đang dần bị quên lãng. Liệu đó có phải là lí do mà các nhà lập pháp Việt Nam không quy định loại hình công ty này trong Luật Doanh nghiệp, mặc dù có rất nhiều hội thảo, rất nhiều công trình khoa học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ... “tụng ca” về công ty hợp vốn đơn giản. Các nhà khoa học thường có cách tư duy lãng mạn để sáng tạo, còn các nhà lập pháp, họ có cách nhìn thực tế.
Luật Doanh nghiệp của Việt Nam quy định về công ty hợp danh, nhung lại quy định trong công ty hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Như vậy, trên thực tế có thể có công ty hợp danh chỉ có một loại thành viên hợp danh, có công ty hợp danh vừa có thành viên hợp danh vừa có thành viên góp vốn mà khoa học pháp lí gọi là công ty hợp vốn đơn giản.
Về mặt lịch sử, các công ty đối vốn ra đời sau các công ty đối nhân. Khác với công ty đối nhân, công ty đối vốn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp.
Đặc điểm quan trọng của công ty đối vốn là có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của các thành viên trong công ty. Luật các nước gọi là nguyên tắc phân tách tài sản. Điều đó cũng có nghĩa là có sự phân biệt giữa thành viên công ty và công ty. Công ty đối vốn có tư cách pháp nhân, các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn mà họ đã góp vào công ty (TNHH). Do việc thành lập chỉ quan tâm đến phần vốn góp, do đó, thành viên công ty thường rất đông, những người không hiểu biết về kinh doanh cũng có thể tham gia vào công ty. Công ty phải đóng thuế cho nhà nước, các thành viên phải đóng thuế thu nhập. Có rất nhiều quy định pháp lí về tổ chức, hoạt động đối với công ty đối vốn, thành viên công ty dễ dàng thay đổi.
Trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, các công ty đối vốn thông thường chia làm hai loại:
- CTCP;
- Công ty TNHH.
Hai loại này tồn tại phổ biến ở châu Âu lục địa và có quy chế pháp lí khác nhau. Hệ thống luật Anh - Mỹ lại không có sự phân biệt rõ ràng giữa công ty TNHH và CTCP như hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Ở Anh chỉ có một loại công ty đối vốn, gọi là Company, ở Mỹ gọi là Public Corporation và Close Corporation. Public Corporation là các công ty có phát hành cổ phiếu rộng rãi trong công chúng như CTCP (công ty mở); còn Close Corporation là các công ty không phát hành cổ phiếu rộng rãi trong công chúng, có quy chế pháp lí gần giống như công ty TNHH (công ty kín).
Hai loại công ty đối vốn tồn tại ở châu Âu lục địa có sự phân biệt rõ ràng hơn, tránh sự nhầm lẫn trong công chúng nhưng có nhược điểm là không thuận lợi khi thay đổi hình thức công ty.
Ngược lại, hệ thống luật Anh - Mỹ tỏ ra mềm dẻo hơn cho người kinh doanh khi chuyển đổi hình thức công ty, nhưng sự phân biệt ở đây không rõ ràng, đòi hỏi trình độ dân trí cao, thông tin rộng rãi, công khai thì mới tránh được sự nhầm lẫn, lừa đảo trong kinh doanh.
Các công ty đối vốn có rất nhiều ưu điểm so với công ty đối nhân, được người kinh doanh ưa chuộng vì chế độ TNHH. Điều đó tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào các khu vực có độ rủi ro lớn và khả năng họ phân tán vốn đầu tư vào nhiều cơ sở kinh doanh khác nhau, tạo điều kiện cho thị trường vốn ra đời, phát triển. Bên cạnh những ưu điểm, công ty đối vốn cũng có những hạn chế. Do chỉ chịu TNHH nên dễ gây rủi ro cho khách hàng. Mặt khác, do chỉ quan tâm đến vốn góp, do đó, thành viên rất đông có thể dẫn tới sự phân hoá các nhóm quyền lợi trong công ty, việc quản lí công ty là rất phức tạp, đòi hỏi phải có đội ngũ quản trị chuyên nghiệp
Các CTCP đầu tiên trên thế giới ra đời vào khoảng thế kỉ XVIII. Nó gắn liền với sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa. Sang thế kỉ thứ XIX, CTCP phát triển mạnh mẽ, nhờ có sự phát triển của công nghiệp cơ khí và sự phát triển rộng rãi của hệ thống tín dụng. CTCP ra đời là phát minh của loài người trong nền sản xuất xã hội. Ở các nước phương Tây, CTCP là mô hình phổ biến nhất cho các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn.
Từ góc độ pháp lí, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của CTCP như sau:
- CTCP là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Đây là loại hình công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, hoạt động mang tính xã hội hoá cao.
- CTCP chịu trách nhiệm đối với mọi khoản nợ của công ty bằng tài sản riêng của công ty. Điều đó thể hiện: công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bàng tài sản của công ty, các thành viên công ty, chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn họ đã góp cho công ty.
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành các cổ phần. Đây chính là thuộc tính cơ bản nhất của CTCP, từ phạm trù cổ phần sẽ phát sinh hàng loạt những vấn đề pháp lí khác.
- Trong quá trình hoạt động, CTCP được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để công khai huy động vốn trong công chúng. Do đó, sự ra đời của CTCP gắn liền với sự ra đời của thị trường chứng khoán.
- Việc chuyển nhượng phần vốn góp được thực hiện dễ dàng thông qua hành vi mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
- CTCP có số lượng thành viên rất đông, cổ đông ở hầu khắp thế giới, vì vậy, nó có khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt là trong công nghiệp.
Đã thành tập quán trong thương mại, Luật Công ty các nước đều quy định số thành viên tối thiểu phải có khi thành lập công ty mà không giới hạn tối đa số thành viên. Đại đa số các nước quy Luật Công ty năm 1990 của Việt Nam quy định tối thiểu phải có bảy thành viên, đến Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định CTCP tối thiểu phải có ba thành viên trở lên.
Đặc trưng quan trọng nhất của CTCP (cũng là tính chất quyết định để phân biệt với công ty TNHH) đó là cổ phần. Khi công ty thành lập kêu gọi mọi người góp vốn, số vốn cần góp được chia thành từng phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần, cổ phần trong công ty đối vốn khác với phần vốn góp trong công ty đối nhân ở chỗ, cổ phần có thể tự do chuyển nhượng, mua bán như một thứ hàng hoá. Người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu, vì vậy cổ phiếu là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với phần vốn góp trong công ty. cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu.
Cổ phần theo quy định của pháp luật có ý nghĩa sau:
- Là phần vốn điều lệ của công ty: Mỗi cổ phần phải thể hiện một giá trị thực tế tính bằng tiền (gọi là mệnh giá cổ phiếu).
- Cổ phần chứng minh tư cách thành viên cổ đông: cổ phần được thể hiện dưới hình thức giấy tờ gọi là cổ phiếu, cổ phiếu là một loại chứng khoán được lưu thông chuyển nhượng tự do trên thị trường.
Cổ phiếu có những đặc tính chung như sau:
- Mỗi cổ phiếu thể hiện giá trị thực tế ban đầu được tính bằng tiền gọi là mệnh giá cổ phiếu.
- Cổ phiếu có thể được lưu thông, chuyển nhượng tự do trên thị trường như là một thứ hàng hoá. cổ phiếu có thể được thừa kế và được dùng làm tài sản thế chấp, cầm cố trong các quan hệ tín dụng.
- Cổ phiếu thường không có thời hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty.
Dựa vào tính chất quyền sử dụng, cổ phiếu được chia thành cổ phiếu ghi danh (ghi tên một người nhất định) và cổ phiếu không ghi danh (không ghi tên, không ghi rõ người sở hữu, thường là với số tiền nhỏ). Dựa vào hình thức cổ phiếu, người ta chia cổ phiếu thành 2 loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu thường hay còn gọi là cổ phiếu phổ thông có những đặc tính chung như đã nói ở trên, cổ phiếu ưu đãi cũng là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu đối với phần vốn góp trong công ty, cổ phiếu ưu đãi cũng được chia thành nhiều loại với những ưu đãi khác nhau như cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại, cổ phiếu ưu đãi thanh lí, cổ phiếu ưu đãi dồn lãi, cổ phiếu ưu đãi tích luỹ. Tuy nhiên, người sở hữu loại cổ phiếu ưu đãi bị hạn chế một số quyền như không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát.
Thủ tục thành lập CTCP rất phức tạp, thông thường phải trải qua những bước sau:
- Bước 1: Trước hết, các sáng lập viên cùng nhau thoả thuận và xây dựng bản Điều lệ công ty, trong đó phải ghi rõ: Tên, trụ sở, mục tiêu, vốn điều lệ, số lượng và mệnh giá cổ phiếu... Các sáng lập viên phải thoả thuận số lượng cổ phần mà họ đảm nhận.
- Bước 2: Cử hội đồng giám sát. Hội đồng giám sát cử ra ban điều hành để đảm nhận những công việc của công ty trong thời gian thành lập. Công việc quan trọng nhất là tiếp nhận vốn góp của các thành viên và chuẩn bị hồ sơ để đăng kí công ty.
- Bước 3: Đăng kí vào danh bạ thương mại. Toà án tiến hành các thủ tục thẩm tra, sau đó ghi tên vào danh bạ thương mại và công bố công ty đã được thành lập. Từ thời điểm này, công ty có tư cách pháp nhân và cũng chỉ sau khi đã được đăng kí, công ty mới được phát hành các cổ phiếu ra công chúng. Mọi cổ phiếu bán ra trước khi đăng kí công ty đều coi là không có giá trị.
Tuỳ theo luật pháp của mỗi nước, việc thành lập CTCP có những quy định khác nhau.
Ở Pháp, CTCP ngoài sự điều chỉnh của Luật Công ty còn được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự liên quan đến các công ty và còn chịu sự tác động của luật quy định điều kiện để các công ty phát hành các loại chứng khoán. Theo pháp luật của Pháp, các CTCP phải có 7 cổ đông trở lên, vốn pháp định tối thiểu là 250.000 FRF đối với công ty không phát hành chứng khoán và 1.500.000 FRF đối với công ty có phát hành chứng khoán và phải góp ít nhất 25% vốn khi thành lập, mệnh giá cổ phiếu là 100 FRF.
Ở Nhật Bản, CTCP được điều chỉnh bởi Luật Thương mại, có tên gọi là công ty Kabushiki (Công ty TNHH theo cổ phần). Đe thành lập CTCP phải có ít nhất 7 sáng lập viên trở lên và phải có vốn tối thiểu là 10 triệu Yên. Mệnh giá cổ phiếu là 50.000 Yên. Khi thành lập, các thành viên phải góp ít nhất 25% vốn đã đăng kí.
Ở Italia, CTCP được điều chỉnh bởi Luật Dân sự, việc thành lập CTCP phải có vốn pháp định là 200 triệu Lia, và 3/10 số vốn phải được góp ngay khi thành lập công ty.
Về tổ chức quản lí CTCP: vấn đề quản lí CTCP rất phức tạp và phải hết sức chặt chẽ. Việc quản lí CTCP được thực hiện thông qua ba cơ quan: Đại hội đồng cổ đông, Ban điều hành, Ban giám sát. Sự quản lí của công ty được phân chia đồng đều về quyền lực giữa các cơ quan và có sự giám sát lẫn nhau.
Bên cạnh những ưu điểm cơ bản như tính hoàn thiện về vốn, trình độ tổ chức và hoạt động mang tính xã hội hoá cao, khả năng phát triển và mở rộng các quan hệ liên kết tư bản... Người ta không thể không tính đến những hạn chế của CTCP.
Trước hết, là chế độ TNHH, sự tham gia đông đảo của công chúng vào đời sống của công ty. Những điều đó có thể gây nguy hiểm cho các chủ nợ, sự phân chia quyền lợi trong các nhóm cổ đông... Do đó, để đảm bảo an toàn cho các cổ đông cũng như của công ty và các đối tác, pháp luật phải có những quy định chặt chẽ đối với vấn đề thành lập, tổ chức, vận hành và kiểm soát công ty, nhất là đối với những vấn đề cơ bản sau:
- Đối với với quá trình thành lập: Luật Công ty phải có những quy định đặc biệt về vấn đề này. Quá trình này phải được thẩm định bởi các chuyên gia kiểm toán độc lập có chuyên môn giỏi.
- Đối với quá trình tổ chức vận hành công ty: Pháp luật cũng quy định chặt chẽ về tổ chức, cơ chế vận hành quản trị công ty, chế độ trách nhiệm.
- Chế độ kiểm soát các giao dịch có khả năng phát sinh tư lợi.
- Vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số.
- Các CTCP phải thực hiện chế độ nghiêm ngặt về kế toán thống kê và báo cáo tài chính. Bảng cân đối và báo cáo tài chính hàng năm phải được, cấc chuyên gia pháp lí, kinh tế, kiểm toán thẩm định. Pháp luật yêu cầu mọi tài liệu, sổ sách kế toán, tài chính của công ty phải được công khai hoá. Tất cả các cổ đông cũng như công chúng đều có quyền được thông tin về hoạt động của công ty.
- CTCP muốn phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng phải có bản giải trình luận chứng trong đó ghi rõ tính chất và hình thức của các cổ phiếu sẽ phát hành.
Khác với tất cả các loại hình công ty, công ty TNHH ra đời là sản phẩm của hoạt động lập pháp. Các loại hình công ty khác do các thương gia sáng tạo và lập ra, pháp luật thừa nhận và góp phần hoàn thiện nó. Năm 1892, Luật về Công ty TNHH ở Đức được ban hành, trước đó đã có Luật Công ty cổ phần ban hành năm 1870. Các nhà làm luật cho rằng:
- Mô hình CTCP không thích hợp với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Các quy định quá phức tạp trong luật CTCP không cần thiết cho loại công ty vừa và nhỏ có ít thành viên và thường là họ quen biết nhau.
- Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của công ty đối nhân không thích hợp với tất cả các nhà đầu tư. Biết phân tán rủi ro là một trong các lí do để thành đạt trong kinh doanh. Công ty TNHH là loại công ty kết hợp được ưu điểm về chế độ chịu TNHH của CTCP và ưu điểm các thành viên quen biết nhau của công ty đối nhân. Nó khắc phục được nhược điểm về sự phức tạp khi thành lập và quản lí của CTCP và nhược điểm không phân chia được rủi ro của công ty đối nhân.
Đúng như dự đoán của các nhà làm luật, sau khi có Luật Công ty TNHH, các nhà đầu tư đã nhiệt tình hưởng ứng. số lượng các công ty TNHH tăng nhanh và hiện nay nó là một trong những loại hình công ty quan trọng nhất ở Cộng hoà Liên bang Đức. Sau năm 1892, ở hầu hết các nước châu Âu lục địa, Nam Mỹ cũng có Luật Công ty TNHH. Thực tế ở Việt Nam chứng minh, các nhà đầu tư rất ưa thích thành lập công ty TNHH. Từ sau khi có Luật Công ty đến nay, số lượng các công ty TNHH nhiều hơn hẳn các CTCP.
Bản chất và chế độ trách nhiệm:
Bất kì ai khi tìm hiểu về công ty TNHH đều có thể đặt câu hỏi, tại sao lại gọi công ty này là công ty TNHH, khi các công ty đối vốn đều có đặc trưng cơ bản là chế độ TNHH.
Công ty TNHH là loại hình công ty trung gian giữa công ty đối nhân và công ty đối vốn, nó vừa có những tính chất của một công ty đối nhân, là các thành viên quen biết nhau; việc góp vốn dễ dàng, đơn giản, việc thành lập, quản lí công ty đơn giản hơn CTCP. Do đó, dễ làm người ta nhầm lẫn công ty TNHH với công ty đối nhân và vì vậy, phải phân biệt rõ ràng ngay từ khi đặt tên. Còn khi nói tới CTCP thì đương nhiên ai cũng hiểu về chế độ TNHH của các cổ đông.
Công ty TNHH là loại hình công ty đối vốn (tuỳ quan niệm của người nghiên cứu cũng có người xếp công ty TNHH thuộc loại hình công ty đối nhân), trong đó các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn mà họ đã góp vào công ty.
Công ty TNHH có những đặc trưng cơ bản:
- Công ty TNHH là một pháp nhân độc lập, tư cách pháp lí này quyết định chế độ trách nhiệm của công ty.
- Thành viên công ty không nhiều và thường là những người quen biết nhau, thông thường pháp luật các quốc gia đều quy định số lượng thành viên tối đa. Pháp luật Việt Nam quy định công ty TNHH tối đa không quá năm mươi thành viên,
- Vốn điều lệ chia thành từng phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít khác nhau và bát buộc phải góp đủ khi công ty thành lập, trong điều lệ công ty phải ghi rõ vốn ban đầu. Nếu khi thành lập công ty mà các thành viên chưa góp đủ phần vốn góp thì công ty bị coi là vô hiệu. Công ty phải bảo toàn vốn ban đầu. Nguyên tắc này thể hiện rổ trong quá trình góp vốn, sử dụng vốn và phân chia lợi nhuận.
Phần vốn góp không thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài.
- Trong quá trinh hoạt động, không được phép công khai huy động vốn trong công chúng (không được phát hành cổ phiếu).
- Về tổ chức, điều hành ở công ty TNHH đơn giản hơn so với CTCP; về mặt pháp lí công ty TNHH thường ít chịu sự ràng buộc pháp lí hơn so với CTCP.
Có thể nói, công ty TNHH là mô hình lí tưởng để kinh doanh ở quy riô vừa và nhỏ.
Luật pháp các nước còn thừa nhận công ty TNHH một chủ. Công ty TNHH một chủ là hệ quả pháp lí đặc biệt của quá trình phát triển pháp luật về công ty. Các công ty đối vốn vẫn có khả năng tồn tại và phát triển khi toàn bộ tài sản của công ty chuyển vào một thành viên duy nhất và trở thành công ty TNHH một chủ sở hữu. Như vậy, nếu theo định nghĩa truyền thống về công ty thì công ty một chủ không phải là công ty thực sự, bởi lẽ về bản chất nó chính là DNTN chịu trách nhiệm hữu hạn. vấn đề là tại sao pháp luật các nước lại thừa nhận loại công ty này (Đức, Anh, Hoa Kỳ). Một số nước như: Tây Ban Nha, Italia, các nước Nam Mỹ thì lại không cho phép thành lập công ty TNHH một chủ vì cho rằng bản chất của nó là doanh nghiệp cá thể. Trong hệ thống kinh tế thị trường, chế độ TNHH tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh hạn chế được rủi ro bằng cách chia sẻ trách nhiệm cho nhiều người, làm cho các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào bất kì lĩnh vực kinh tế nào có lợi cho xã hội. Trường hợp ngược lại, nếu phải chịu trách nhiệm vô hạn, họ không dám đầu tư vào những khu vực có khả năng rủi ro lớn và như vậy sẽ không có lợi cho xã hội. Trong thực tế, có công ty TNHH có nhiều thành viên, trong quá trình hoạt động các thành viên chuyển nhượng vốn cho nhau và cuối cùng chỉ còn một thành viên, công ty vẫn hoạt động có hiệu quả, đóng thuế cho Nhà nước, sử dụng nhiều lao động và thành viên đó không muốn kết nạp thêm thành viên mới. Trong trường hợp này lẽ nào lại bắt họ phải giải thể công ty hoặc buộc họ phải chuyển thành DNTN, trong khi đó họ vẫn muốn giữ tên công ty và thương hiệu công ty đã được khẳng định uy tín trên thị trường. Hơn nữa, trong thực tế đã tồn tại công ty TNHH một thành viên, đó chính là các doanh nghiệp nhà nước.
Lịch sử phát triển các công ty thời gian gần đây cho thấy, công ty TNHH một người chiếm vị trí khá quan trọng ở các nước châu Âu. Luật Doanh nghiệp Việt Nam có quy định về công ty TNHH một thành viên do một cá nhân hoặc một tổ chức lài 1 chủ sở hữu. Việc thành lập công ty TNHH một chủ dựa trên cơ sở hành vi pháp lí đơn phương của một cá nhân hay một pháp nhân. Trong công ty TNHH một chủ, chủ sở hữu công ty phải chấp nhận một số hạn chế, cũng như chịu sự giám sát ngặt nghèo của pháp luật.
Ở hệ thống pháp luật Anh - Mỹ thì việc phân chia các loại hình công ty có một số điểm đáng lưu ý. Các doanh nghiệp gồm các loại sau:
- Xí nghiệp tư (Proprietorship) giống như DNTN của Việt Nam.
- Hợp danh (Partnership), bao gồm: hợp danh thông thường (general partnership) và hợp danh hữu hạn (Limited partnership).
- Công ty kín (Close Corporation).
- Công ty mở (Public Corporation).
Hợp danh
Luật Hợp danh thống nhất của Hoa Kỳ định nghĩa: hợp danh là sự liên kết của hai hay nhiều chủ sở hữu nhằm tiến hành kinh doanh thu lợi nhuận. Hợp danh có đặc điểm chủ yếu sau:
- Các thành viên của hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của hợp danh.
- Các thành viên vừa là chủ sở hữu vừa là người quản lí, điều hành các hoạt động của hợp danh. Trong hợp danh không có bộ máy quản lí chuyên biệt.
- Hợp danh không phải là một pháp nhân. Các giao dịch của hợp danh do chính các thành viên của hợp danh tiến hành. Bất cứ hành vi nào của thành viên trong hợp danh nếu được thực hiện nhân danh hợp danh và trong phạm vi hoạt động của hợp danh đều có giá trị ràng buộc đối với hợp danh đó cũng như đối với các thành viên của nó.
- Tư cách pháp lí của hợp danh được xác định chủ yếu bởi thoả thuận hợp danh. Pháp luật Hoa Kỳ không có những đòi hỏi chặt chẽ đối với hợp danh như đối với các loại công ty. Luật Hợp danh chỉ điều chỉnh những gì mà thoả thuận họp danh có thể không đề cập tới.
- Tài sản của hợp danh và bản thân hợp danh là sở hữu chung theo phần của các thành viên. Việc rút lui của một thành viên là điều kiện chấm dứt sự tồn tại của hợp danh.
- Tài sản của hợp danh do các thành viên đóng góp và không được biểu hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng cho người ngoài.
Hợp danh có hai hình thức là hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn. Hợp danh thông thường là hợp danh có đặc điểm như đã đề cập ở trên. Hợp danh hữu hạn là hợp danh trong đó phải có ít nhất hai thành viên thông thường (chịu trách nhiệm vô hạn) và ít nhất một thành viên có TNHH. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn chính là sự có mặt của loại thành viên chịu TNHH, các thành viên có TNHH chỉ góp vốn vào hợp danh nhưng không tham gia hoạt động kinh doanh, quản trị các hoạt động đó. Có thể nhận xét rằng: Hợp danh thông thường theo pháp luật Hoa Kỳ có những điểm giống với loại hình công ty hợp danh theo pháp luật châu Âu lục địa, còn hợp danh hữu hạn thì giống với loại hình công ty hợp vốn đơn giản.
Công ty kín
Công ty kín có những đặc điểm pháp lí sau:
- Về sổ lượng thành viên thường không nhiều (tuỳ theo luật của từng bang) song thông thường tối đa là 35 thành viên.
- Cồ phần cũng được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu song không được bán ra trên thị trường chứng khoán và cũng không được chuyển nhượng cho người ngoài công ty.
- Các thành viên chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn góp vào công ty (TNHH). Tuy nhiên, có một điểm đặc biệt là ưong những trường hợp nhất định, thành viên của công ty có thể phải chịu trách nhiệm vô hạn. Ví dụ như khi công ty vay vốn, ngân hàng có thể yêu cầu một số thành viên nhất định nào đó đứng ra chịu ưách nhiệm vô hạn đối với khoản vay đó. Trong trường hợp này, nếu công ty không ưả được nợ thì các thành viên này phải chịu trách nhiệm cá nhân trước ngân hàng đối với khoản nợ đó.
- Ở công ty kín, vấn đề quản trị công ty do các thành viên phân công nhau đảm trách mà không có bộ máy quản trị tập trung, chuyên nghiệp.
Có thể nhận xét rằng, công ty kín theo pháp luật Hòa Kỳ về cơ bản có những thuộc tính giống với loại hình công ty TNHH trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
Công ty mở
Công ty mở có những đặc trưng chủ yếu sau:
- Tài sản của công ty mở được hình thành từ các cổ phần và được xác định bằng cổ phiếu, cổ phiếu trong công ty dễ chuyển nhượng và được lưu thông trên thị trường như một loại hàng hoá. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản nhất giữa công ty mở và công ty kín trong pháp luật của Hoa Kỳ. Tính dễ dàng chuyển nhượng cổ phiếu của công ty mở đem lại tính năng động về vốn, song vẫn giữ đừợc tính ổn định về tài sản của công ty.
- Trong quá trình hoạt động, công ty có quyền phát hành cổ phiếu ra thị trường để huy động vốn.
- Về chế độ trách nhiệm: cộng ti chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ của mình trong phạm vi tài sản của công ty, các thành viên chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình.
Từ những đặc điểm trên, có thể khẳng định công ty mở theo pháp luật Hoa Kỳ về cơ bản giống với CTCP theo pháp luật châu Âu lục địa.
Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Thương mại 1 - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).
Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm