Cơ sở của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam

"Khoản đầu tư tốt nhất trên Trái đất này chinh là đất."

- Louis J. Glickman

Cơ sở của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam

Trước đây, Việt Nam cũng giống với các nước khác trên thế giới đều thừa nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai. Sau khi Hiến pháp năm 1980 ra đời với quy định đất đai là của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19), pháp luật chỉ thừa nhận một hình thức sở hữu đất đai duy nhất: Sở hữu toàn dân về đất đai. Hình thức sở hữu đất đai này tiếp tục được Hiến pháp năm 1992 khẳng định tại Điều 17 và Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại Điều 53. Như vậy ở Việt Nam, quan hệ đất đai mang những nét đặc thù nhất định.

Liên hệ

Việc nghiên cứu một số luận điểm khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai thời gian qua cũng như tìm hiểu một số đặc trưng của chế độ chiếm hữu ruộng đất ở Việt Nam thời phong kiến sẽ đưa ra lời giải cho câu hỏi trên đây.

1- Một số luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tính tất yếu khách quan của việc quốc hữu hoá đất đai

Học thuyết Mác-Lênin cho rằng nhân loại cân phải thay thế 'hình thức sở hữu tư nhân về đất đai bằng cách “xã hội hoá” đất đai thông qua việc thực hiện quốc hữu hoá đất đai. Quốc hữu hoá đất đai là một việc làm mang tính tất yếu khách quan và phù hợp với tiền trình phát triển của xã hội loài người. Bởi lẽ:

Thứ nhất, xét trên phương diện kinh tế, việc tích tụ, tập trung đất đai đem lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao hơn so với việc sản xuất nông nghiệp trong điều kiện duy trì hình thức sở hữu tư nhân về đất đai.

Khi nghiên cứu vị trí và tầm quan trọng của đất đai trong sản xuất nông nghiệp, các học giả tư sản chia sẻ quan điểm với C. Mác rằng hình thức sở hữu tư nhân về đất đai dẫn đến việc chia nhỏ, manh mún đất đai. Điều này không phù hợp với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất với phương thức sản xuất “đai cơ khí” trong nông nghiệp; cản trở việc áp dụng máy móc và các thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, kìm hãm sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Để khắc phục những nhược điểm này, cần phải tích tụ, tập trung đất đai thông qua việc “quốc hữu hoá” đất đai: "Tất cả các phương tiện hiện đại như tưới nước, tiêu nước, cấy cày bằng hơi nước, bón phân hoá học, thuốc trừ sâu bằng máy bay... phải được áp dụng rộng rãi trong nông nghiệp. Nhưng những tri thức khoa học mà chúng ta nắm được và những phương tiện kĩ thuật để canh tác mà chúng ta có được chỉ có thể đem lại  kết quả nếu được dùng trong việc canh tác đại quy mô”,

Nếu như việc canh tác đại quy mô (ngay cả bằng cái phương thức tư bản chủ nghĩa ngày nay đang làm cho bản thân người sản xuất trở thành trâu ngựa) xét theo quan điểm kinh tế vẫn có lợi hơn nhiều so với một nền “sản xuất tiểu nông” (C. Mác - Ph. Ăngghen - Quốc hữu hoá đất đai).

Mặc dù các học giả tư sản đồng tình với quan điểm trên đây của C. Mác cần phải quốc hữu hoá đất đai song một câu hỏi đặt ra là tại sao ở các nước tư bản, giai cấp tư sản không tiến hành quốc hữu hoá đất đai hoặc tiến hành quốc hữu hoá đất đai một cách “nửa vời”. Điều này được lý giải như sau: nếu giai cấp tư sản tiến hành quốc hữu hoá đất đai triệt để sẽ dẫn đến việc thủ tiêu quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, mà đây lại là cơ sở kinh tế, điều kiện vật chất để hình thành chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong khi đó, quyền tư hữu về tư liệu sản xuất lại được giai cấp tư sản ra sức bảo vệ. Hiến pháp của các nước tư bản đã tuyên bố: “Quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”. Như vậy, khó có thể tin rằng vì lợi ích phát triển chung của xã hội, giai cấp tư sản sẽ tiến hành việc quốc hữu hoá đất đai. Ngược lại, họ tìm mọi biện pháp và thủ đoạn để bảo vệ lợi ích của chính họ gắn liền với quyền tư hữu về đất đai. Chính vì vậy, C. Mác đã chỉ ra rằng, nhà nước tư sản xét cho cùng cũng chỉ là đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản mà thôi: “ngay cổ nhà nước, lấy cớ là chỉ quan tâm đến của cải quốc gia và tài nguyên của nhà nước, trên thực tế họ tuyên bố rằng quyền lợi của giai cấp các nhà tư bản và việc làm giàu nói chung là mục đích cuối cùng của nhà nước”

Thứ hai, tìm hiểu về nguồn gốc phát sinh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin nhận thấy: đất đai không do bất cứ ai tạo ra, có trước con người và là “tặng vật” của thiên nhiên ban tặng cho con người, mọi người đều có quyền sử dụng. Không ai có quyền biến đất đai - tài sản chung của con người - thành của riêng mình. C.Mác đã khẳng định: “Quyền tư hữu ruộng đất là hoàn toàn vô lý. Nói đến quyền tư hữu về ruộng đất chẳng khác gì nói đến quyền sở hữu cá nhân đối với người đồng loại của mình. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì chế độ tư hữu về ruộng đất là vô lý nhất" C. Mác cũng cho rằng: “toàn. thể một xã hội, một nước và thậm chí tắt thây các xã hội cùng sống trong mọi thời đại hợp lại, cũng đều không phải là kẻ sở hữu đất đai. Họ chỉ là những người có đất đai ấy, họ chỉ được phép sử dụng đi đai ấy và phải truyền lạt cho các thế hệ tương lai sau khi đã làm cho đất ấy tốt hơn lên như những người cha hiền vậy”?

Thứ ba, nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, C. Mác đưa ra kết luận: “mỗi một bước tiến của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là một bước đẩy nhanh quá trình kiệt quệ hoá đất đai”. Bởi lẽ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trọng nông nghiệp được xác lập và vận hành dựa trên ba chủ thể cơ bản là: Chủ đất (người sở hữu đất đai nhưng không trực tiếp thực hiện việc kinh doanh trong nông nghiệp); nhà tư bản (người tiến hành việc kinh doanh trong nông nghiệp, có vốn nhưng không có tư liệu sản xuất là đất đai và không có sức lao động); Người lao động (là những người có sức lao động nhưng không có vốn để kinh doanh, không có đất đai để canh tác). Trong phương thức sản xuất nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh, họ phải thuê lại đất của chủ đất và thuê người lao động(người công nhân) để thực hiện việc sản xuất. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trọng nông nghiệp hàm chứa trong nó mâu thuẫn về lợi ích giữa nhà tư bản; chủ đất và người công nhân làm thuê. Nhằm đạt được mục đích thu lợi nhuận tối đa, nhà tự bản có xu hướng muốn giảm tiền thuê đất đồng thời kéo dài thời gian thuê và tìm mọi cách khai thác tối đa các thuộc tính có ích của đất đai;giảm chi phí bồi bổ cải tạo đất đi đôi với việc bóc lột thậm tệ sức lao động của người công nhân làm thuê và tìm cách cắt giảm tiền lương trả cho họ. Ngược lại, chủ đất lại muốn rút ngắn thời hạn cho thuê đất để quay vòng thuê và tăng giá đất cho thuê nhằm thoả mãn các nhu cầu của bản thân và gia đình. Để đạt được các mục đích ngày, nhà tư bản và chủ đất cấu kết với nhau tìm mọi cách bóc lột tối đa sức lao động của người công nhân làm thuê và làm giàu bằng mồ hôi, công sức của người lao động. Như vậy, xét dưới góc độ kinh tế, hiệu quả kinh tế mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trọng nông nghiệp mang lại dựa trên sự khai thác tối đa cóxu hướng dẫn đến “kiệt quệ hoá” đất đai. Mặt khác xét về phương diện xã hội, sở hữu tư nhân về đất đai vô bình trung trở thành phương tiện đề giai cấp tư sản (giai cấp chiếm hữu đất đai) thực hiện việc khai thác, bóc lột sức lao động của người lao động để làm giàu cho chính bản thân mình, Muốn giải phóng người lao động thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội bình đẳng, tiến bộ và công bằng thì cần phải thủ tiêu hình thức sở hữu tư nhân về đất đai của giai cấp tư sản chiếm thiểu số trong xã hội.

Thứ tư, quốc hữu hoá đất đai do giai cấp vô sản thực hiện phải gắn với vấn đề giành chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản.

Bên cạnh đó, V.I Lênin cũng nhấn mạnh rằng muốn thực hiện thành công việc quốc hữu hoá đất đai thì giai cấp vô sản phải thiết lập cho được chính quyên của mình. Hay nói cách khác, việc thiết lập chuyên chính vô sản là điều kiện tiền để vô cùng quan trọng để giai cấp vô sản tiến hành quốc hữu hoá đất đai; bởi lẽ, không bao giờ giai cấp tư sản lại dễ dàng “tự nguyện” từ bỏ các quyền lợi của mình gắn liền với chế độ tư hữu đất đai. Vì vậy, việc tiến hành quốc hữu hoá đất đai tất yếu sẽ gặp phải sự chống trả quyết Liệt và dữ đội của giai cấp tư sản thống trị. Việc thiết lập chuyên chính vô sản giúp cho giai cấp vô sản có đủ sức mạnh cần thiết để đập tan mọi sự chống trả, phần kháng đó: “Quốc hữu hoá đất đai do giai cấp vô sản thực hiện sau khi cách mạng thành công luôn gắn liền với vấn đề chính quyền, với việc thiết lập chuyên chính vô sản.Nếu không giải quyết được vấn đề chính quyên; không thiết lập được chuyên chính vô sản thì quốc hữu hoá đất đai cũng chỉ là một hình thức pr sản mà thôi...” (V.I. Lênin).

Thứ năm, việc xóa bộ chế độ tư hữu về ruộng đất của giai cấp tư sản phải là một quá trình tiến hành lâu dài, gian khổ.

Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng việc tiến hành quốc hữu hoá đất đai là một tất yếu khách quan. Song các ông cũng chỉ ra rằng không thể xóa bỏ ngay lập tức chế độ tư hữu về ruộng đất; việc xoá bỏ chế độ này phải là một quá trình lâu đài. Theo Ph. Ängghen: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ từ hữu ngay lập tức được không? Trả lời Không, không thể được,cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh !Ễ công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dẫn dân và chỉ khi nào đã tạo nên được một khái lượng tử hiện sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đồ thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”).

Tư tưởng này của Ph, Ăngghen cũng trùng hợp với quan điểm của V.I. Lênin. Người chỉ rõ: “Quốc hữu hoá đất đai là một quy luật tất yếu khách quan đối với bất kỳ nước nào làm cách mạng vô sản nhưng không nhất thiết phải tiến hành ngay lập tức sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền mà có thể dần dần từng bước từ thấp đến cao, từ tập thể hóa đến xã hội hoá” (V.I. Lênin).

Thực tiễn cách mạng vô sản nổ ra ở một số nước trên thế giới trong thế kỷ XX đã chứng minh tính đúng đắn của những dự báo thiên tài và sáng suốt trên đây của C. Mác, Ph. Ăngghen và VI. Lênin - những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin. Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh riêng của mỗi nước mà giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền có thể thực hiện ngay hoặc thực hiện từng bước một tiến trình quốc hữu hoá đất đai.

2- Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai

Vận dụng sáng tạo những nguyên lý khoa học của học thuyết Mác-Lênin về quốc hữu hoá đất đai vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; quá trình quốc hữu hoá đất đai ở nước ta được thực hiện qua các giai đoạn lịch sử đánh dấu bằng các sự kiện chủ yếu sau đây:

- Ngay từ khi mới thành lập (ngày 03/02/1930), Đảng ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề ruộng đất, coi việc giải quyết vấn đề ruộng đất là một nội dung quan trọng của cách mạng dân tộc, dân chủ. Trong Luận cương chính trị năm 1930, Đảng ta đã xác định rõ chính sách đối với ruộng đất: “Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về chính phủ công nông”.

Chính cương vắn tắt của Đảng cũng khẳng định: “Thầu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”, Quan điểm thu hồi hết ruộng đất của để quốc, phong kiến làm của công, thực hiện quyền ruộng đất về Nhà nước (cấm mua, bán ruộng đất là tiền đề quan trọng và là nền tảng của chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở nước ta trong giai đoạn này;

- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền nhân dân tuyên bố bãi bỏ các luật lệ về ruộng đất của chế độ cũ;

- Năm 1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh về giảm tô; bãi bỏ thuế thổ trạch ở thôn quê:

- Năm 1953, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua Luật cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của địa chủ, phong kiến, cường hào... chia cho nông dân, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”

- Tiếp đó, Hiến pháp năm 1959 quy định: “Nhà nước chiều theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân...” (Điều 14);

- Trong những năm 1960, miền Bắc thực hiện phong trào “hợp tác hoá” vận động nông dân đóng góp ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác vào làm ăn tập thể trong, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Ở giai đoạn này, “đặc dù Hiển pháp 1959 quy định rõ Nhà Nước bảo hộ quyền sở hữu iw nhân VỀ rUỘng đất của người nông dân nhưng trong quá trình vận động nông dân hải vào làm ăn tập thể, tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp và thực hiện việc “cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội”, về cơ bản đất đai ở nước ta từng bước đã được xã hội hoá toàn bộ”

- Sau khi đất nước thống nhất (ngày 30/4/1975); ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua bản hiến pháp mới (Hiến pháp năm 1980) quy định rõ: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa...là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân” (Điều 18). Và “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lí và tiết kiệm” (Điều 20). Đây là cơ sở pháp lý cao nhất xác định rõ toàn dân là chủ sở hữu đối với toàn bộ vốn đất quốc gia;

- Sau đó, Hiến pháp năm 1992 ra đời thay thế Hiến pháp năm 1980 cũng tiếp tục khẳng định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ; nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời... là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân” (Điều 17). Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại - được ban hành long trọng tuyên bế: "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (Điều 53).

Sự khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân của Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 dựa trên những cơ sở thực tiễn chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, về mặt chính trị, ở nước ta, vốn đất đai quý báu do công sức, mồ hôi, xương máu của các thế hệ người Việt Nam tạo lập nên, vì vậy nó phải thuộc về toàn thể nhân dân. Điều này đã được khẳng định trong Báo cáo thẩm tra Dự án Luật đất đai năm 1993 của uỷ ban pháp luật của Quốc hội khoá IX được trình bày tại kỳ họp thứ ba ngày 13/6/1993: “Vì đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là thành quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tấn bạo công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay. Hơn nữa, nước ta là một nước có mật độ dân số cao, bình quân đất canh tác theo đầu người thấp, người làm nghề nông chiếm hơn 85% dân số, vì lẽ đó việc xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý là hết sức quan trọng nhằm bảo đảm sử dụng đất đai đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, vì lợi ích hiện tạt và cho cả thế hệ mai sau của dân tộc cũng như lợi ích của mỗi người dân”. Hơn nữa, hiện nay trong điều kiện nước ta “mở cửa”, chủ động hội nhập từng bước vững chắc vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thì việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai là một trong những phương thức nhằm góp phần củng cố và bảo vệ vững chắc nên độc lập dân tộc.

Thứ hai, về phương diện lịch sử, ở nước ta hình thức sở hữu nhà nước về đất đai (đại diện là nhà vua ở các nhà nước phong kiến) đã xuất hiện từ rất sớm và tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của dân tộc. Sự ra đời hình thức sở hữu đất đai này xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành và gIữ nền độc lập dân tộc. Đạo lý của việc bảo vệ, giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc chính là bảo vệ chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia chống lại mọi hình thức xâm lược của ngoại bang. Mặt khác, việc xác định và tuyên bổ đất đai thuộc Nhà nước là đại điện là nhà vua còn mang ý nghĩa khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt đối với các nước láng giềng và với các nước khác trên thế giới. Ổ khía cạnh khác, nghề trồng lúa nước ra đời và tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta và trở thành một ngành sản xuất chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Trong đó,thuỷ lợi là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công của nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước đã được ông cha ta tổng kết thành câu tục ngữ: “Nhất nước, nhì phân,tam cần, tứ giống”. Chính vì vậy, việc xác lập hình thức đất đai thuộc sở hữu nhà nước sẽ tạo điều kiện để các nhà nước phong kiến huy động sức mạnh của toàn dân vào công tác đắp đê, làm thủy lợi trên quy mô lớn. Bên cạnh đó, đối với một nước có đai đa số người dân sống chủ yếu bằng nghề nông như nước ta thì vấn đề đất đai có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ trên phương diện kinh tế, xã hội mà còn cả trên khía cạnh chính trị. Vì vậy, giai cấp phong kiến thống trị muốn củng cố và bảo vệ được quyền lực của mình thì tắt yếu phải xác lập quyền sở hữu đối với đất đai. Với ý nghĩa đó, việc ra đời hình thức sở hữu nhà nước về đất đai mà đại diện là nhà vua còn là một phương thức để các nhà nước phong kiến trong lịch sử thực hiện việc củng cố chính quyền nhà nước nói chung và xây dựng nhà nước trung ương tập quyền nói riêng.

Thứ ba, về mặt thực tế, hiện nay nước ta còn hơn 4,5 triệu ha đất tự nhiên chưa sử dụng (4.508.600 ha“, chủ yếu là đất trống, đồi núi trọc. Việc xác lập đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà Nước thống nhất quản lý sẽ giúp Nhà nước có điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai theo kế hoạch phát triển chung nhằm quản lý chặt chẽ và từng bước đưa diện tích đất này vào khai thác, sử dụng hợp lí đi đôi với việc cải tạo, bồi bổ vốn đất đai quý giá của quốc gia "với tư cách không chỉ là người quản lý nhà nước mà động thời là người chủ sở hữu đất đai trong cả nước, Nhà nước mới có thể quy hoạch và có chính sách khai thác hợp lý, đầu tư thích đáng bảo vệ và bồi bổ đất đai trong cả nước cũng như ở từng vùng kinh tế, làm sao để toàn bộ đất đai được sử dụng hợp lí bảo đảm nuốt sống nói chung, bảo đảm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của xã hội nói riêng đối với đất đa.Bên cạnh đó, trong giai đoạn dậy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước hiện nay thì việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai sẽ tạo ưu thế và thuận lợi cho Nhà nước trong việc sử dụng đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích chung của toàn xã hội: “Phải dứt khoát khẳng định rằng, quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai trước đây và chính trong điều kiện đổi mới hiện nay đang đưa lại cho Nhà nước và xã hội ta một chủ thể và là một điều kiện thuận lợi để phục vụ các nhu cầu khác nhau của phát triển xã hội. Đây cũng chính là khả năng, điều kiện, phương tiện có sẵn trong tay Nhà nước đâm báo cho phái triển xã hội đh trong môi trường xã hội phát triển nhiều thành phần kinh tế”

Thứ tư, việc duy trì và củng cố hình thức sở hữu toàn dân về đất đai trong giai đoạn hiện nay còn căn cứ vào lý do thực tiễn sau:Các quan hệ về quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta được xác lập dựa trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý đã mang tính ấn định trong một thời gian khá dài (từ năm 1980 đến nay). Nay nếu thay đi hình thức sở hữu đất đai này sẽ dẫn đến những sự xáo trộn trong lĩnh vực đất đai, làm tăng tính phức tạp của các quan hệ đất đai: thậm chí dẫn đến sự mất ổn định về chính trị - xã hội của đất nước.

3- Một số đặc điểm về việc chiếm hữu ruộng đất trong lịch sử Việt Nam

Khác với các nước Đông Nam á, Việt Nam là nước duy nhất cho đến đầu thế kỉ XX quá trình tư hữu hoá đất đai vẫn chưa hoàn thành. Mặc dù vậy, sẽ là sai lâm khi ai đó cho rằng ở Việt Nam Không tổn tại sở hữu tư nhân về ruộng đất. Do những điều kiện ở Việt Nam vừa thuộc sở hữu nhà nước, vừa thuộc sở hữu tư nhân: “Trong các triều đại phong kiến Ở nước ta vừa có sở hữu đất đai của nhà nước như quân điền, quan điền mà vua là người đại diện (nhưng vua không phải là chúa đất lớn nhất như ở phương Tây), vừa có sở hữu công xã về đất đai, vừa có sở hữu ruộng đất tư nhân”? Sự song hành tồn tại bao hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân về ruộng đất trong suốt chiều dài lịch sử chế độ phong kiến đã tạo nên những nét đặc trưng của chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam.

3.1- Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà nước

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, việc xác lập quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với đất đai xuất hiện từ rất sớm ở nước ta.Điều này được lý giải bởi các nguyên nhân chủ yếu sau: về khía cạnh chính trị, việc xác lập quyền sở hữu tối cao của nhà nước (mà đai điện là nhà vua) đối với đất đai nhằm khẳng định chủ quyền, sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của các triều đại phong kiến Việt Nam với các nước láng giềng. Mặt khác, việc Nhà nước nắm giữ đất đai - tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội - trong tay sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền phong kiến từ trung ương đến địa phương; về khía cạnh kinh tế, nghề trồng lúa nước xuất hiện từ rất sớm ở nước ta và đóng vai trò là một ngành sản xuất chủ yêu. Tuy nhiên, năng suất lao động, hiệu quả kinh tế của phương thức canh tác trồng lúa nước lại phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên. Để khắc phục sự tàn phá của thiên nhiên đối với sản xuất nông nghiệp (như hạn hán, lũ lụt...) thì việc xây dựng, tu bổ hệ thống thuỷ lợi, đê điều đóng vai trò vô cùng quan trọng. Với chức năng quản lí xã hội, các nhà nước phong kiến đã tổ chức, tập hợp người dân trong công cuộc khai phá các vùng đất mới, đắp đê, xây dựng các hệ thống thuỷ lợi. Với ý nghĩa đó, mỗi mảnh đất mà người nông dân canh tác đều,hàm chứa công sức đầu tư của nhà nước.Mặc dù quyền sở hữu tối cao của nhà nước về đất đai bắt đầu manh nha hình thành vào triều Lý (thế kỉ thứ XI) xong nó chỉ thực sự được xác lập một cách tương đối vững chắc từ thời Lê sơ (thế kỷ thứ XV) và được tiếp. tục duy trì trong các thể ki sau. Quá trình xác lập quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với đất đai được đánh đấu bằng các sự kiện chủ yếu sau đây:

- Nhà Lý sau khi giành được ngôi báu và củng cố vững chắc quyền lực thống trị của mình đã cho tiến hành đo đạc lại ruộng đất trong cả nước nhằm xác lập chủ quyền của Nhà nước đối với toàn bộ đất đai trong cả nước; quá trình xác lập quyền sở hữu này được tiếp tục thực hiện dưới thời nhà Trần bằng việc vua Trần lập ra một chức quan chuyên lo về việc điền địa, trông coi đê điều;

- Thời nhà Lê, sau cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh giành được thắng lợi năm 1428, vua Lê cho tiến hành thống kê ruộng đất trong cả nước: “Rộng đất của các quan tì ngạch cũ, của các thể gia triểu trước, của những người dân tuyệt tự, cũng là ruộng đất và sản vật từng mùa của ngụy quân, của lính trần hạn đến tháng tư năm sau thì phải nộp lên”. Cùng với việc thống kê năm bắt tình hình ruộng đất, năm 1429 nhà Lê đã tiến hành thu hồi ruộng đất của bọn quan lại nhà Minh, của ngụy quân chiếm đoạt,số ruộng đất của nhân dân bị bỏ hoang, của lính trốn để sung làm ruộng đất của công. Đồng thời, nhà nước cũng quản lý chặt chẽ ruộng đất công thông qua việc nhà vua ra lệnh cho các phủ làm ruộng đắt, số hộ.

Hơn nữa, để thực hiện quyền sở hữu của mình đối với ruộng đất, nhà nước cần đặt ra chế độ tô thuế cho từng loại ruộng đất, quy định cụ thể quyền sở hữu của mình trên ruộng đất công.Do củng cố vững chắc sự thống nhất, tập trung quyền lực nên nhà Lê đã can thiệp mạnh mẽ vào quyền sở hữu ruộng đất của làng, xã thông qua phép quân điền (điều mà các triều đại phong kiến Lý, Trần trước đây dường như chưa hoặc ít thực hiện được). Phép quân điền được ban hành chính thức thành quy chế vào đời Hồng Đức (1470 - 1497), theo đó, nhà Lê phân chia các ruộng đất công cho dân các làng, xã với thời hạn chia lại ruộng đất là 6 năm một lần. Như vậy, với những chính sách chặt chẽ và tương đối triệt để của nhà Lê về ruộng đất dẫn đến kết quả là: “quyền sở hữu về ruộng đất của làng, xã bị can thiện khả mạnh. Trước đây, công xã vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức phân phối cho các thành viên (nông dân) thì nay công xã chỉ còn là người quản lÝ ruộng cho nhà nước,giúp nhà nước phân chia ruộng, thu thuế theo quy định chung.Quyền tự trị của làng, xã trong lĩnh vực này bị huỷ bỏ dân”. Tuy Nhiên, đến cuối triều Lê (thế kỷ thứ XVII) do sự suy yếu của chính quyền phong kiến trung ương đã dẫn đến việc làm suy yếu quyền sở hữu nhà nước đối với ruộng đất. Tình trạng mua bán, chiếm đoạt ruộng công điền diễn ra khá phổ biến.

Tóm lại: Quyền sở hữu của nhà nước đối với đất đai được hình thành từ rất sớm ở nước ta xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đấu tranh giành và giữ nền độc lập tự chủ cũng như đồi hỏi của việc phát triển nền nông nghiệp trồng lúa nước. Hình thức sở hữu này bắt đầu manh nha từ thế kỉ thứ XI, được củng cố vững chắc ở thế kỷ thứ XV và tiếp tục được duy trì ở các triều đại phong kiến tiếp theo với quy mô và mức độ khác nhau.

3.2. Quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai

Mặc dù chế độ ruộng đất công được nhà nước phong kiến bảo hộ và phát triển mạnh mẽ nhất trong thời kỳ Lê sơ song bên cạnh đó còn tồn tại quyền sở hữu tư nhân đối với ruộng đất. Hình thức sở hữu này bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ thời Lý - Trần: “ở Việt Nam đã có sự tấn tại và phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về đất đai không những vào thế kỉ XV mà còn từ nhiều thế kỷ trước”. Đến thời Lê sơ, với những chính sách ban cấp ruộng đất cho công thần, quan lại, quý tộc có quy mô lớn, số lượng ban chấp nhiều, nhà nước lại cho phép họ có quyền định đoạt (có quyền mua bán, chuyển nhượng, dùng làm tài sản thừa kế) trừ khi phạm tội, nên sở hữu tư nhân trở thành một hình thức sở hữu phổ biến.Sở hữu tư nhân về ruộng đất bao gồm: 

i) Sở hữu lớn của những quan lại, quý tộc được nhà nước ban cấp ruộng  đất; 

ii) Sở hữu nhỏ của những người nông dân đô có sức lao động, có quyền mua ruộng đất và tích tụ đất đai. Do sự phát triển của sở hữu tư nhân ngày càng mạnh, nhà nước không chỉ thừa nhận mà còn có chính sách bảo vệ hình thức sở hữu này. Pháp luật nhà Lê trước hết bảo vệ quyền sở hữu đất đai của giai cấp địa chủ, phong kiến rất chặt chẽ. Các hành vị xâm chiếm hoặc bán trộm đất đai bị trừng phạt rất nặng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng bảo vệ quyền sở hữu đất đai hợp pháp của tư nhân và trừng phạt các hành vi xâm phạm. 

Bước sang thế kỉ XVI, ruộng đất tư hữu phát triển mạnh mẽ hơn so với thời kỳ trước đó. Chế độ chiếm hữu lớn tư nhân về ruộng đất là một trong những tiền đề dẫn đến việc chấm dứt thời kỳ thống trị của nhà Lê sơ và sự thống nhất của cả nước dưới một chính quyền chung. Các cuộc chiến tranh liên miên nổ ra ở các thế kỉ XVI - thế kỉ XVII không những tàn phá nghiêm trọng nên sản xuất nông nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp địa chủ, phong kiến xâm chiếm ruộng đất công và ruộng đất của nông dân. The ki XVIII được ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc bởi sự phân chia đất đai và tranh giành quyền lực thống trị của hai tập đoàn phong kiến đàng Ngoài (vua Lê - chúa Trịnh) và đàng Trong (nhà Nguyễn). Sự tranh giành quyền lực của 2 tập đoàn phong kiến này đã tác động mạnh mẽ lên chính sách đất đai nói chung và chế độ sở hữu tư nhân vẻ ruộng đất nói riêng ở nước ta trong thế kỷ XVII. Cụ thể:

 - Về ruộng đất tư ở đàng Ngoài, do sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân vẻ ruộng đất ở những thập kỉ đầu của thế kỷ thứ XVI đã ảnh hưởng lớn đến thu nhập của nhà nước, làm sụt giảm đáng kể cho nguồn thu của nhà nước. Dẫn đến việc buộc nhà nước phải huỷ nô lệ miễn thuế cho ruộng tư vốn được thực hiện suốt từ thế kỉ XV cho đến lúc đó. Kết quả là nhà nước quyết định đánh thuế đối với cả ruộng đất công và ruộng đất tư nhưng với mức độ khác nhau. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi cho tầng lớp quan lại đóng vai trò chủ chết trong giai cấp phong kiến, năm 1724. chúa Trịnh Cùng với việc ban cấp ruộng đất huệ dưỡng, ruộng sử thần và các chế độ bổng lộc khác cho quan lại đã ban lệ miễn thuế ruộng tư cho quan lại. Chính sách này đã có tác dụng khuyến khích các quan lại mua, tậu ruộng tư và do vậy đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất.

- Về ruộng đất từ ở đàng Trong, đề mở mang lãnh thổ bờ cõi và tăng cường nguồn nhân lực, của cải nhằm cùng cỗ tiềm lực chính trị, quân sự và kinh tế phục vụ trực tiếp cho cuộc tranh giành quyền lực với nhà Trịnh ở đàng Ngoài, chúa Nguyễn đã ban hành một loạt chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.Một trong những chính sách đó là chính sách khuyến khích, động viên mọi người tích cực khai phá đất hoang bằng cách miễn thuế sử dụng đất trong 3 năm đầu và coi ruộng đất khai phá thuộc quyền sở hữu của người bỏ công sức và vốn liếng ra khai phá. Kết Quả là ở vùng cực nam của đất nước xuất hiện một loạt các trang trại tư nhân lớn. Chính sách khẩn hoang này của chúa Nguyễn đã tạo điều kiện cho sở hữu tư nhân về ruộng đất phát triển và tồn tại dai dẳng, vững chắc ở miễn Nam.

Từ sự phân tích khái quát đặc điểm hình thành quyền sở hữu ruộng đất ở nước ta có thể đưa ra nhận xét như sau: “Ở Việt Nam,nhà nước giữ quyền sở hữu tối cao đối với toàn bộ đất đai của quốc gia. Vì vậy quyền tư hữu đối với ruộng đất là một thứ quyền tư hữu bị hạn chế và không hoàn chính, luôn luôn bị sự chi phối lớn quyền sở hữu tối cao của nhà nước. Đây chính là một đặc điểm lớn trong chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam”.

Tóm lại: Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay được xây dựng không chỉ dựa trên những luận cứ khoa học của học thuyết Mác-Lênin về quốc hữu hoá đất đai mà còn căn cứ vào những điều kiện thực tiễn đặc thù của nước ta, cũng như kế thừa và phát triển tập quấn chiếm hữu đất đai của cha ông trong lịch sử.

Chuyên viên pháp lý: Nguyễn Thị Mai, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Đất đai - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
3.8 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Cơ sở của việc xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
2.13341 sec| 1196.07 kb