Đoàn luật sư

"Một bản án không đúng tác hại hơn là nhiều gương xấu. Gương xấu chỉ làm đục dòng sông, còn bản án kia làm hư ngay tận nguồn".

- Francis Bacon

Đoàn luật sư

Đoàn Luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản, được thành lập theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Tên của Đoàn Luật sư bao gồm cụm từ Đoàn Luật sư tỉnh (thành phố) và tên tỉnh (thành phố) trực thuộc Trung ương nơi Đoàn Luật sư được thành lâp.

Thành viên của Đoàn Luật sư là của Luật sư đã gia nhập Đoàn Luật sư theo quy dinh của Luật Luật sư và Điều lệ Liên đoàn Luật sư.

Đoàn Luật sư được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Đoàn Luật sư ban hành Nội quy để điều chỉnh quan hệ nội bộ của Đoàn Luật sư.

Đoàn Luật sư là thành viên của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, có các quyền, nghĩa vụ thành viên Liên đoàn, được Liên đoàn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chịu sự hướng dẫn, giám sát của Liên đoàn theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam quy định.

Liên hệ

I- ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐOÀN LUẬT SƯ

1- Lịch sử phát triển của Đoàn Luật sư:

Ngay từ khi chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập, phải chống thù trong giặc ngoài, thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác, nhưng chỉ sau hơn một tháng công bố Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945, trong đó tạm thời cho duy trì các tổ chức đoàn thể Luật sư theo Sắc lệnh ngày 25/5/1930, với những sửa đổi tiêu chuẩn theo hướng: Muốn được liệt danh vào Đoàn Luật sư tại Tòa thượng thẩm Hà Nội hay Sài Gòn phải có đủ những điều kiện sau đây: “1- Có quốc tịch Việt Nam, bất luận nam nữ; 2- Có bằng cử nhân luật; 3- Đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một Văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam. Những người đã làm Luật sư tập sự ở Pháp có thế xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều nhất là 12 tháng; 4- Có hạnh kiểm tốt; và: 5- Được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm Luật sư thực thụ".

Có thể nói, Sắc lệnh số 46/SL được ban hành thể hiện nhãn quan và bàn lĩnh vực ký sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin về tính kế thừa cách mạng, trong dó có sự vận dụng mang tính sách lược các quy định pháp luật cũ, miễn là nội dung không trải với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Chính sự vận dụng tài tinh nguyên lý này nên cúng trong ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày sắc lệnh số 47/SL vổ việc cho phép áp dụng tạm thời các quy định pháp luật cũ theo nguyên tắc nêu trên. 

Trong khi đó, giới Luật gia trong thời kỳ này cũng còn đang tranh luận về sự tiếp thu các tư tưởng pháp lý tiến bộ trên khía cạnh “Lý luận pháp lý tự nhiên" (Droit naturel), nhật ký cuộc tranh luận về “tư pháp độc lập". Thậm chí đã có một cuộc tranh luận trong nội bộ Bộ Tư pháp về vấn đề nên hay không nên xóa bỏ chế độ Luật sư của Pháp lại và thay thế bằng chế độ bảo chữa viên nhân dân. Theo ghi chép của những người đương thời, cuộc đấu tranh về tư tưởng "giữ hay không giữ Đoàn Luật sư" gay cấn đến mức độ chỉ có Chủ tịch Hồ chí Minh, với tầm nhìn chiến lược và nhãn quan sắc bén, tình tường, đã đi đến quyết định vẫn giữ lại tổ chức Luật sư. Điều này chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát triển biện chứng của việc Người luôn phân biệt một cách rành mạch giữa thứ "khai hóa pháp lý" mang tính nô dịch của chế định Luật sư thời Pháp thuộc, với việc kế thừa các giá trị tư tưởng văn minh pháp lý của nhân loại. 

Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ khi thành lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân đã quan tâm, điển chế hóa Luật sư thành chế định của Hiến pháp. Bởi lẽ, cùng với quan niệm coi “dân chủ là của quý bầu nhất của nhân dân", Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức Luật sư với vai trò là người bảo vệ, giúp giữ vẻ mặt pháp lý cho người dân, đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng nhim thực hiện một trong những quyền cơ bản của công dân, quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình. Suy rộng ra, nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vai trò của Luật sư trong phát triển dân chủ và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dàn, chính là nói đến vấn đề quyền con người được bảo dim bằng pháp luật. Không thể nói đến dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dãn, nếu không đề cập đến một trong những chủ thể đồng vai trò quan trọng trong thế chế xã hội và pháp lý - đó là đội ngũ Luật sư. 

Xuất phát từ quan niệm: "Nghĩ cho cùng vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề di dời và làm người", Chủ tịch Hồ Chí Minh là người “khởi xướng nền chính trị và pháp quyền vì con người, cho con người và của con người". Để thực hiện  cho được tư tưởng nhân quyền bao la đó, Người đi cùng Giàng tà chi đạo việc xây dựng Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp dân chủ đấu tiên của Đông Nam Á - chứa đựng những tinh hoa cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng ta. Điều 67 của Hiến pháp năm 1946 quy định: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa láy hoặc mượn Luật sư". Sau này, Điều 101 Hiến pháp năm 1959 cúng khẳng định nguyên tắc: “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm"

Đây là một trong những quyền tự do crt bản của công dân và từ đây, chế định là đã trở thành chế định Hiến pháp - làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động của Luật sư trong chế dỏ xã hội chủ nghĩa. Xét vổ phương diện lịch sử, điểm nói bật ương tư tưởng Hồ Chí Minh là từ sự tiếp nhận có chọn lọc chế định Luật sư dưới thời Pháp thuộc, tạm thời duy trì các yếu tố tích cực của chế định này, tiến tới không định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong Hiến pháp. Chế định Luật sư từ nay đã có được sự bảo đảm bởi đạo luật cơ bản của nước nhà và vai trò của Luật sư trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng đã được khẳng định. 

Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ chí Minh đối với vai trò của Luật sư trong thời kỳ mới giành chính quyền thể hiện thông qua việc chỉ đạo Bộ Tư pháp của Chính phủ liên hiệp lâm thời tiến hành tuyển lựa sổ Thẩm phán đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. trong số này có cả các Luật sư cũ "tương đối sạch sẽ, không phạm tội ác gì lớn đối với nhân dân” và Hội đồng tuyển chọn có cả Trưởng đoàn Luật sư Hà Nội lúc bấy giờ là ỏng Nguyễn Huy Mán tham gia.  

Không những vậy, Luật sư Nguyễn Văn Hưởng còn được chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy và nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp và là một trong những người đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp giấy chứng minh “bé liên lạc với các cơ quan hành chính, quân sự được đề dòng”. Nhiều luật gia, Luật sư tên tuổi khác như các ông Vũ Đình Hoè (Bộ trưởng Bộ Tư pháp), Trần Công Tường, Phan Anh, Vũ Văn Hiến cũng thường xuyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến về các công việc quốc gia đại sự, về “mặt pháp lý của cuộc đấu tranh", trong đó liên quan đến mặt trận đàm phán ngoại giao khi ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946.

Có thể nói, xung quanh Chính phủ liên hiệp lâm thời là Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn có vai trò đồng góp to lớn của đội ngũ luật gia, Luật sư tên tuổi thời bấy giờ đến lượt minh, các giá trị tư tưởng về pháp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên, góp phần giải quyết các vướng mắc, bất bóng nảy sinh trong quá trình hoạt động tư pháp, nhát LÀ liên quan đến cuộc tranh luận và vấn đề “tư pháp độc lập”

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã đặt ra những thách thức “ngàn cân treo sợi tóc” với chính quyền cách mạng còn non trẻ. Một trong những ván dé được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm là làm thế nào bảo đảm được các quyển và tự do dân chủ của nhân dân trong điều kiện chiến tranh. Chế định Luật sư trong thời chiến sẽ được thực hiện như thế nào? 

Ngày 18/6/1949, trong điều kiện cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn hết sức quyết liệt, giữa bộn bề công việc của chính quyền cách mạng, trong khi Tổ chức hành nghề Luật sư như quy định trước đây chưa có điều kiện thực tế đến hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 69/SL, quy định “từ nay đến khi nào cỏ thê lệ khác, trước các Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hlnh, trừ Tòa án bản tại mặt trận, bị can có thể nhờ ruột công dãn không phải là Luật sư. bào chứa cho công dân do bị can đã tự chọn dé bênh vực mình phải được óng Chánh án thừa nhận. Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chảnh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, có một người ra bào chữa cho bị can”.

Điểm đặc biệt của chế định này là: (a) Bị can có quyền nhờ người bào chữa trước Tòa án; (ba) Người bào chữa cho bị can có thể không nhất thiết phải là Luật sư) Người bào chữa này không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhãn bị can. Từ Sắc lệnh số 69/SL, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 01/NĐ ngày 12/01/1950 quy định chi tiết chế độ bào chữa viên nhân dân. Khi thiết lập chế độ bào chữa viên nhân dân, do quy định người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thần nhãn bj can. nên việc cáp mhl ví bào chữa được hướng dẫn chỉ tiết trong Nghị định số 885-11-CTP ngày 04/6/1956 của Liên bộ Tài chính - Tư pháp (sau này được sửa đổi bởi Nghị định số 99-HCTP ngày 28/8/1957 của Liên bộ Tài chính - Nội vụ - Tư pháp). 

Có thể nói, đây là thời điểm hình thành nên chế định bào chữa viên nhân dân đầu tiên ở nước ta có còn duy trì cho đến hiện nay. Chế định bào chữa viên nhân dân là một chế định đặc thù của một giai đoạn lịch sử cách mạng của nước ta, không giống với bất kỳ một chế định tương tự nào của các nước trên thế giới. Bộ Tư pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo chỉ đạo của Bác Hồ đỡ “kiểm điểm" là chúng ta chưa nhận thấy một cách sâu sắc tầm quan trọng của quyền tự do bào chữa trong chế độ dân chủ nhân dân của ta nói chung vả trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói riêng..., ý thức tôn trọng pháp luật của Nhà nước của chúng ta còn thiếu sót nhiều. Từ dó, Bộ Tư pháp khẳng định dưới chế độ dân chủ nhân dân, quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của người công dân. 

Đại hội luật gia dân chú quốc tế họp năm 1956 đã nhận định, quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác", xâm phạm đến quyền tự do bào chất thì không thể nào thực hiện được các quyền tự do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó. Có thể nói, chế định bào chữa viên nhân dân hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã kịp thời phát huy tác dụng tích cực của nỏ trong việc tham gia vào vẻ quyên và lợi ích hợp pháp của công dân trước Tòa án. Đó là nét đặc sắc chưa từng có tiỂu lộ trong lịch sử nghề nghiệp luật sư trên thế giới. 

Sau khi đất nước thống nhất, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, Nghề Luật sư ở Việt Nam phát triển chậm, trải qua nhiêu thăng trầm. Chó dính bào chữa viên nhân dân tiếp tục được duy trì, ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các Đoàn bào chữa viên nhân dân được thành lập đặt bên cạnh Tòa án. Trên cư xử quyên lién dinh nêu trong hiến pháp năm 1980, Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987 được ban hành. loại khuôn khổ pháp lý dáu tiên cho việc hình thành chế định Luật sư, làm cơ sở cho việc thành lập các Đoàn Luật sư trên cả nước vào cuối thập niên 80 thế kỷ trước.

Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã kế thừa, lần đầu tiên quy định về các tiêu chuẩn chặt chẽ để trở thành Luật sư, không định quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa (gọi chung LÀ“quyền bào chữa”) ở Việt Nam được coi là quyền Hiến định, phù hợp với các Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế mà Việt Nam đã tham gia và ký kết từ năm 1982. 

Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động nghề nghiệp Luật sư nói chung và bảo đảm quyền bào chữa nói riêng dă được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm đúng mức. Vị trí, vai trò và chức năng xã hội của đội ngũ Luật sư Việt Nam đã tạo được chỗ đứng trong xã hội, có được sự tin cậy nhất định từ phía các thiết chế quyền lực, quản lý nhà nước, các chủ thể xã hội và công dân. Trong một chừng mực nhất định, hoạt động nghề nghiệp đã góp một phần đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đồng vai trò ngày càng đậm nét trong quá trình dân chủ hỏa hoạt động tố tụng, từng bước bảo đảm quyền con người trong đời sống tư pháp. Nhiều Cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương, địa phương đã có nhận thức, đánh giá đúng đắn vai trò, trách nhiệm và sự tham gia của Luật sư trong các vụ án hình sự, nên đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc Luật sư tham gia tố tụng, nhiều kiến nghị của Luật sư đã được giải quyết, nhiều bản án đã ghi nhịn quan điểm bào chữa của Luật sư, làm cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án. Hoạt động của LÁ cũng cần được quản lý chặt chẽ, chuyên nghiệp hơn từ cấp Trung ương đến địa phương. Do đó, sự ra đời của các Đoàn Luật sư ở các địa phương trên toàn quốc trở thành nhu cầu cấp thiết.  

2- Địa vị pháp lý của Đoàn Luật sư:

Đoàn Luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản.

Tên của Đoàn Luật sư bao gồm cụm từ Đoàn Luật sư tỉnh (thành phố) và tên tỉnh (thành phố) trực thuộc Trung ương nơi Đoàn Luật sư được thành lập. 

Đoàn Luật sư được thành lập theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Thành viên của Đoàn Luật sư là của Luật sư đã gia nhập Đoàn Luật sư theo quy định của Luật Luật sư và Điều lệ Liên đoàn Luật sư.

Đoàn Luật sư được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Đoàn Luật sư ban hành Nội quy để điều chỉnh quan hệ nội bộ của Đoàn Luật sư.

Đoàn Luật sư là thành viên của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, có các quyền, nghĩa vụ thành viên liên đoàn, được liên đoàn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chịu sự hướng dẫn, giám sát của Liên đoàn theo quy định của Luật Luật sư, Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam quy định. 

Đoàn Luật sư giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động sau:

Tham gia thực hiện Chiến lược truyền thông của Liên đoàn, phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác trong các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Luật sư trong xã hội, khuyến khích việc sử dụng Luật sư trong tố tụng, trong giao dịch dân sự và các giao dịch, dự án đầu tư, kinh đoành của các đoành nghiệp, cơ quan, tổ chức... 

Tham gia các hoạt động hướng nghiệp nhằm giúp sinh viên luật có sự chuẩn bị tốt hơn cho dự định trở thành Luật sư trong tương lai.

Thực hiện các quy định về trình tự. thủ tục. điều kiện đăng ký tập sự và gia nhập Đoàn Luật sư đáp ứng yêu cầu minh bạch, thuận lợi, đúng pháp luật và Điều lệ.

Tăng cường giám sáp hoạt động tập sự để hoạt động này thực chất hơn, góp phần nâng chất lượng đầu vào của đội ngũ Luật sư. 

Phối hợp với Liên đoàn, các cơ quan liên quan tổ chức các kỳ thi đánh giá kết quả tập sự Luật sư nghiêm túc, chặt chẽ nhằm đánh giá đúng năng lực của người tập sự.

Phối hợp với Liên đoàn tổ chức thực hiện bồi dưỡng bắt buộc đối với Luật sư, trong đó có bồi dưỡng về Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư. 

Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hành nghề, các kiến thức pháp luật về hội nhập quốc tế. Mặc dù kinh nghiệm và kỹ năng của Luật sư hiện nay được phát trốn chủ yếu qua thực tiễn hành nghị, Đoàn Luật sư cũng có vai trò tích cực trong việc tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chung (khóa học. hội thảo, tọa đàm...), nhờ thế mạnh tập hợp, kết nối được các nguồn lực của các tổ chức hành nghề và các Luật sư có kinh nghiệm, uy tín. và kết hợp với các hoạt động hợp tác quốc tế của Đoàn.

Đoàn Luật sư có thể phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện chính sách pháp luật để tạo hành lang pháp lý, khuyến khích, thúc đẩy và hỗ trợ cho việc mở rộng quy mô. nâng cao tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa trong tổ chức hành nghề, thông qua các hoạt động hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm vẽ kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề. Bên cạnh đó, Đoàn Luật sư có thể thực hiện các hoạt động bồi dưỡng thường xuyên về pháp luật liên quan đến hội nhập quốc tế, tập hợp các nhóm Luật sư hoạt động chuyên sâu về thương mại quốc tế đẽ giao lưu, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm trong hành nghề và thực hiện các hoạt động khác phục vụ hội nhập.

Tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tư pháp, ủy ban nhân dân thành phố, sở Tư pháp...) trong hoạt động quản lý Luật sư và hành nghề Luật sư.

Phối hợp với Liên đoàn trong các hoạt động thực hiện chế độ tự quản của Liên đoàn trong phạm vi cả nước và Đoàn Luật sư tại địa phương.

Xem xét giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo về hoạt động hành nghề Luật sư, thực hiện xử lý kỷ luật nghiêm minh theo quy trinh chặt chẽ, dân chủ, đúng pháp luật và Quy chế xử lý kỷ luật do Liên đoàn ban hành, đồng thời đề cao trách nhiệm bảo vệ Luật sư bị khiếu nại, tố cáo sai hoặc không thuộc các trường hợp vi phạm pháp luật, Điều lề hoặc Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư. 

Tiếp tục sử dụng có trách nhiệm, hiệu quả nguồn ngân sách của Đoàn Luật sư (chủ yếu từ thu phí thành viên), tận dụng có hiệu quả các nguồn lực khác như sự hỗ trợ của nhà nước, các nguồn tài trợ đồng góp từ các tổ chức hành nghề, từ hoạt động hợp tác quốc tế... phục vụ lợi ích thiết thực của các Luật sư thành viên.

Bên cạnh đó, Đoàn Luật sư có vai trò, trách nhiệm phát động, tổ chức thực hiện các hoạt động: 

- Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Cùng với việc báo cáo tuyên truyền, phó ban pháp luật do các Luật sư của Đoàn thực hiện tại các cơ quan, đoàn thể, địa phương, đoành nghiệp, trên các phương tiện thông tin đại chúng..., Đoàn Luật sư trực tiếp tổ chức các hoạt động tuyên truyền về các quy định pháp luật mới ban hành có phạm vi ảnh hưởng rộng đến đời sống xã hội. Bàn tin Luật sư và website của Đoàn Luật sư ngoài việc đưa cả thông tin hoạt động của Đoàn, còn đăng tải những bài viết về những vấn đề pháp luật được quan tâm.

- Hoạt động tham gia tố tụng: Đoàn Luật sư tập hợp, phản ánh các ý kiến của Luật sư về hoạt động tham gia tố tụng, kiến nghị điều chỉnh các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng dé tiếp tục tháo gỡ các rào cản, vướng mắc đang hạn chế quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư trong tố tụng; tiếp tục làm tốt công tác phân công bào chữa theo yêu cầu của CQTHTT. góp phần nâng gắn tỳ lộ số vụ án hình sự do Tòa án xét xử tại thành phố có Luật sư tham gia.

- Hoạt động trợ giúp pháp lý: Cùng với các hoạt động trợ giúp pháp lý do các Luật sư của Đoàn thực hiện tại trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tại các Tổ chức hành nghề Luật sư, Đoàn Luật sư tiếp tục duy trì hoạt động trợ giúp pháp lý thường xuyên tại trụ sở Đoàn. Hoạt động trợ giúp pháp lý còn được lồng ghép trong các hoạt dộng phong trào của Đoàn.

- Hoạt động đóng góp xây dựng chính Sách, pháp luật về cải cách tư pháp, cải cách hành chính, và hội nhập quốc tế: Tổ Chức và tham gia các cuộc hội thảo, tọa đàm, góp ý bằng văn bản, tham gia ý kiến đối với các dự án luật và văn bản dưới luật trong quá trình soạn thảo; phản ánh, kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc thực tính hoạt động Luật sư trong khuôn khổ hoạt động giám sáp chấp hành pháp luật của các Đoàn công tác của Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố...
Đoàn Luật sư có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

• Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư trong hành nghề.

• Thực hiện rà soát, đánh giá hàng năm chất lượng đội ngũ Luật sư; giám sáp, phối hợp với Đoàn Luật sư ở địa phương khác giám sát Luật sư là thành viên, Luật sư hành nghề trong Tổ chức hành nghề Luật sư và chi nhánh của Tổ chức hành nghề Luật sư tại địa phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam; xử lý kỷ luật đối với Luật sư.

• Giám sát. phối hợp với Đoàn Luật sư ở địa phương khác giám sáp hoạt động của Tổ chức hành nghề Luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề Luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề Luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và nghị Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.

• Cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề Luật sưvà giám sáp người tập sự hành nghề Luật sư; lập danh sách những người dù điều kiện tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam

• Nhận hồ sơ sổ nghị cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư và gửi Sở Tư pháp; dí nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề Luật sư. 

• Tổ Chức đăng ký việc gia nhập Đoàn Luật sư, tổ chức việc chuyên, tiếp nhận Luật sư; đề nghị Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp, đổi, thu hồi Thẻ Luật sư.

• Thực hiện bồi thường bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề Luật sư.

• Giám sáp việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của Luật sư.

• Hòa giải tranh chấp giữa người tập sự hành nghề Luật sư, Luật sư với Tổ chức hành nghề Luật sư; giữa khách hàng với Tổ chức hành nghề Luật sư và Luật sư.

• Quy định về mức phí gia nhập Đoàn luật sư, phí tập sự hành nghề Luật sư trên cơ sở khung phí do Liên đoàn Luật sư ban hành.

• Báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam , ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về dự án tổ chức đại hội, phương án xây dựng nhân sự Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.

• Thực hiện nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

• Tổ Chức để các Luật sư tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện trợ giúp pháp lý.

• Báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động của Đoàn Luật sư, kết quả Đại hội; gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam nghị quyết, quyết định, nội quy, quy định của Đoàn Luật sư theo quy định của Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam hoặc khi được yêu cầu.

• Báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tổ chức và hoạt động, kết quả Đại hội; báo cáo Cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu; gửi Ủy ban nhân dân tinh, thành phố trực thuộc Trung ương nghị quyết, quyết định, quy định của Đoàn Luật sư.

• Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

II- CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN VÀ TRỰC THUỘC CỦA ĐOÀN LUẬT SƯ:

1-  Đại hội Luật sư của Đoàn luật sư:

Đây là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn Luật sư. Đại hội Luật sư được tổ chức theo nhiệm kỳ năm (05) năm một lần. Đại hội Luật sư có thế được triệu tập bát thưởng theo quyết định của Ban chủ nhiệm đé quyết định những ván đế thuộc thám quyến của Đại hội Luật sư; hoặc theo đề nghị của Ít nhất một phần hai (1/2) số Luật sư của Đoàn Luật sư; hoặc theo đề nghị của Ban "Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Đại hội Luật sư được triệu tập theo hình thức Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu tùy thuộc vào số lượng thành viên của Đoàn Luật sư. 

Số lượng đại biểu của Đại hội đại biểu Luật sư do Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư quyết định trên nguyên tiểu bảo đâm đại diện đầy đủ cho ý chí, nguyện vọng quyền lợi của toàn thể Luật sư thành viên của Đoàn Luật sư. 

Đại biểu Đại hội đại biểu Đoàn Luật sư phải là các Luật sư có phẩm chất đạo đức, có trách nhiệm trong xây dựng và phát triển Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, có uy tín trong đội ngũ Luật sư của Đoàn Luật sư, có trách nhiệm, khả năng đóng góp cho Đại hội; không phải là người đã bị xử lý kỷ luật trong nhiệm kỳ do vi phạm Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam. Nội quy Đoàn Luật sư hoặc đang bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư xem xét xử lý kỷ luật; không phải là người đang bị tạm giữ, tạm giam, truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Việc phân bổ cụ thể số lượng đại biểu Đại hội đại biểu Đoàn Luật sư do Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư quyết định nhưng phái bảo đàm nguyên tie phân bổ và tiêu chuẩn đại biếu quy định tại Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư triệu tập Đại hội Luật sư. 

Đại hội Luật sư hợp lệ nếu có ít nhất hai phần ba (2/3) số đại biểu được triệu tập tham dự. Trong trường hợp không đủ hai phần ba (2/3) số đại biểu được triệu tập tham dự thi trong thời hạn ba mươi (30) ngày kể từ ngày triệu tập lần thứ nhất phải triệu tập Đại hội lần thứ hai. Đại hội triệu tập lần thứ hai hợp lệ khi có trên một phân hai (1/2) số đại biểu được triệu tập tham dự. Trong trường hợp Đại hội triệu tập lần thứ hai không dù tròn một phần hai (1/2) số đại biểu được triệu tập tham dự thì trong thời hạn ba mươi (30) ngày kể từ ngày triệu tập lần thứ hai phải triệu tập Đại hội lần thứ ba. Đại hội triệu tập lần thứ ba hợp lệ không phụ thuộc vào số lượng đại biểu tham dự.

Đại hội Luật sư có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Thảo luận, thông qua báo cáo tổng kết hoạt động hành nghề của Luật sư, hoạt động của Đoàn Luật sư trong nhiệm kỳ và phương hướng, kế hoạch hoạt động của nhiệm kỳ tới;

- Thông qua báo cáo tài chính của Đoàn Luật sư trong nhiệm kỳ.

- Thông qua Nội quy Đoàn Luật sư hoặc xóa bỏ, bổ sung Nội quy,

- Bầu Ban Chủ nhiệm, Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư;

- Bầu đại biểu tham dự Đại hội Đại biểu Luật sư toàn quốc.

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư quyết định nội dung, chương trình, thành phần tham dự và thủ tục tiến hành Đại hội Luật sư theo quy định của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam và hướng đi của Liên đoàn Luật sư toàn quốc. 

Nghị Quyết và các quyết định của Đại hội Luật sư được thông qua khi có trên một phần hai (1/2) sỗ đại biểu có mặt tại Đại hội biểu quyết tán thành. 

Chậm nhất là ba mươi (30) ngày làm việc trước ngày tổ chức Đại hội Luật sư, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư gửi Liên đoàn Luật sư và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Đoàn Luật sư được thành lập Đề án tổ chức Đại hội. phương án xây dựng nhân sự bầu vào Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư (hoặc phương án nhân sự bầu bổ sung Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật, bầu thay thế Chủ nhiệm đối với Đại hội Luật sư bất thường). 

Ban Thường vụ Liên đoàn hướng dẫn về nội dung Đề án tổ chức Đại hội Luật sư và phương án xây dựng nhân sự bầu vào các cơ quan của Đoàn Luật sư và chỉ đạo Đại hội của Đoàn Luật sư thực hiện đúng quy định của Điều lệ Liên đoàn Luật sư và nghị quyết, quyết định của Hội đồng Luật sư toàn quốc. 

Trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc kể từ ngày kết thúc Đại hội Luật sư, Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Đoàn Luật sư được thành lập về kết quả của Đại hội Luật sư kèm theo biên bản bầu cử, danh sách trích ngang của Chủ nhiệm, các thành viên Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư, nghị quyết và các quyết định của Đại hội. 

Kết quả đại hội Luật sư được công nhận sau khi ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Đoàn Luật sư được thành lập phê chuẩn. 

2- Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư:

Đây là cơ quan chấp hành của Đại hội Luật sư và là cơ quan điều hành của Đoàn Luật sư. Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư có nhiệm vụ tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết, quyết định của Đại hội Luật sư điều hành hoạt động của Đoàn Luật sư.

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư có Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm và các ủy viên. Số lượng Phó Chủ nhiệm, ủy viên của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư do Nội quy Đoàn Luật sư quy định. 

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư do Đại hội Luật sư bầu ra, có nhiệm kỳ năm (05) năm theo nhiệm kỳ của Đại hội nhiệm kỳ Đoàn Luật sư. Nhiệm kỳ- của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư kết thúc khi Đại hội nhiệm kỳ của Đoàn Luật sư bau ra Ban Chủ nhiệm mới. 

Thể thức bầu Ban Chủ nhiệm được áp dụng theo quy định tại khoản 4 Điều 7 của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư quy định về quy trinh đề cử, ứng cử, lập danh sách ứng cử viên và những vấn đề khác liên quan đến việc bầu Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư theo hướng dẫn của Hội đồng Luật sư toàn quốc. 

Luật sư tham gia Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây.

- Gương mẫu chấp hành quy định của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư. Nội quy Đoàn Luật sư;

- Có uy tín và năng tập hợp. đoàn kết Luật sư trong Đoàn Luật sư;

- Có năng lực quản lý, điều hành.

Luật sư thuộc một trong các trường hợp sau đây thì không được ứng cử vào Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư:

- Đã bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư hoặc tổ chức khác mà đó tham gia xử lý kỷ luật trong nhiệm kỳ hoặc đang bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư xem xét xử lý kỷ luật; 

- Đang bị tạm giữ, tạm giam, truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư họp ít nhất một (01) lần trong một (01) tháng và có thể họp bất thường do quyết định những công việc đột xuất thuộc thẩm quyền của Ban Chủ nhiệm theo quyết định của Chủ nhiệm hoặc đề nghị của ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên Ban Chủ nhiệm. 

Cuộc họp Ban Chủ nhiệm do Chủ nhiệm Đoàn Luật sư triệu tập. Trong trường hợp Chủ nhiệm Đoàn Luật sư không triệu tập họp Ban Chủ nhiệm theo định kỳ nhiều lần hoặc theo đề nghị của ít nhất một phần hai (1/2) số thành viên Ban Chủ nhiệm thi Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam có quyền chỉ định một Phó Chủ nhiệm triệu tập và chủ trì cuộc họp của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư. 

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số. Cuộc họp Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư hợp lệ nếu có ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên Ban Chủ nhiệm tham dự. Quyết định của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư được thông qua khi có trên một phần hai (1/2) số thành viên Ban chủ nhiệm có mặt tại cuộc họp biểu quyết tán thành. Trong trường hợp biểu quyết có số phiếu bằng nhau thì ván đế được quyết định theo ý kiến của bên có phiếu của Chủ nhiệm hoặc của Phá Chủ nhiệm chủ trì cuộc họp Ban Chủ nhiệm. 

Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận tập sự hành nghề Luật sư và quản lý tập sự hành nghề Luật sư theo quy định của pháp luật; đăng ký gia nhập và tổ chức kết nạp Luật sư; chuyên, tiếp nhận hồ sơ từ Đoàn Luật sư khác; nhận hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gửi Sở Tư pháp; đề nghề Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề Luật sư; đề nghị Liên đoàn Luật sư Việt Nam cặp. đổi. thu hồi Thẻ Luật sư;

- Giám sát Luật sư là thành viên, Luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề và chi nhánh của Tổ chức hành nghề Luật sư tại địa phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ Liên đoàn, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư;

- Giám sáp hoạt động của các Tổ chức hành nghề Luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của Tổ chức hành nghề Luật sư; yêu cầu Tổ chức hành nghề Luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và chuyển Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý; quyết định hoặc đề nghị khen thưởng đối với Tổ chức hành nghề Luật sư;

- Phân công Tổ chức hành nghề Luật sư cử Luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng.

- Tổ Chức bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn nghiệp vụ, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cho Luật sư theo hướng dẫn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; tổ chức bồi dưỡng theo nhu cầu về nghiệp vụ chuyên môn. vẽ kỹ năng quản tri, điều hành Tổ chức hành nghề Luật sư;

- Hòa giải tranh chấp có liên quan đến hành nghề giữa Luật sư và Luật sư, giữa Luật sư và Tổ chức hành nghề Luật sư; giữa các Tổ chức hành nghề Luật sư với nhau; giữa khách hàng với Luật sư; giữa khách hàng với Tổ chức hành nghề Luật sư

- Xem xét và quyết định việc khen thưởng, kỷ luật đối với Luật sư;

- Tổ chức tổng kết, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và thực hiện các biện pháp khắc nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho Luật sư;

- Tổ chức lấy ý kiến về tập hợp ý kiến đồng góp của Luật sư trong việc xây dựng chính sách, pháp luật;

- Tổ chức, phân công Luật sư của Đoàn Luật sư tham gia các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý;

- Tổ chức các hoạt động hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam;

- Báo cáo Liên đoàn Luật sư Việt Nam, ủy ban nhân dân tinh, thành phố trực thuộc Trung ương về tổ chức, hoạt động của Đoàn Luật sư và chất lượng đội ngũ Luật sư của Đoàn theo quy định của pháp luật và theo hướng diễn của Ban 'Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam;

- Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy dinh của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

3- Hội đồng khen thưởng, kỷ luật: 

Đây là cơ quan chuyên trách xem xét, xác minh, kết luận và xuất khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư. Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư là cơ quan tham mưu của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư trong công tác khen thưởng, kỷ luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo; do Đại hội Luật sư bầu ra theo nhiệm kỳ của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư

Thành viên Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư phải có các tiêu chuẩn sau dày: 

- Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mỉu chấp hành quy định của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư;

- Trung thực, khách quan, vô tư;

- Có uy tín trong Đoàn Luật sư.

Hội đồng khen thưởng, kỷ luật gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên, chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật do Hội đồngbầu ra trong số các thành viên của Hội đồng. Số lượng thành viên của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật do Đại hội Luật sư quyết định. 

Thể thức bầu và quy trình để cử, ứng cử, lập danh sách ứng cử viên và các ván dé chi tiết khác liên quan dính líu Hội đồng khen thưởng, kỷ luật được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 20 của Điềulệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam

Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 

- Xem xét và nghị Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư quyết định các hình thức khen thưởng của Đoàn Luật sư đối với Luật sư, các đơn vị của Đoàn Luật sư, các Tổ chức hành nghề Luật sư; hoc để nghị Ban chủ nhiệm trinh Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng Luật sư, các đơn vị của Đoàn Luật sư, Tổ chức hành nghề Luật sư;

- Xác minh, xem xét và nghị Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư quyết định các hình thức kỷ luật đối với Luật sư;  

- Thụ lý, xác minh, xem xét đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với Luật sư, các cơ quan, đơn vị của Đoàn Luật sư và xuất với Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư vổ việc giải quyết các đơn, thư đó. 

Cuộc họp của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba (2/3) số thành viên của đội bóng tham dự.

Hội đồng khen thưởng, kỷ luật làm việc theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số; trường hợp số phiếu ngang nhau thl phiếu của Chủ tịch Hội đồng Luật sư quyết định.

Các trường hợp miễn nhiệm, bãi nhiệm và thủ tục miễn, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, ủy viên của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật được áp dụng theo quy định tại các khoản 5,6 và 7 Điều 21 của Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam. 

Ngoài ra, Văn phòng Đoàn Luật sư và các đơn vị chuyên món do Đoàn Luật sư thành lập để giúp Ban Chủ nhiệm triển khai thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn Luật sư. 

Đoàn Luật sư có từ một nghìn (1.000) Luật sư thành viên trở lên có thể thành lập Chi nhánh Đoàn Luật sư theo đơn vị quận, huyện hoặc khu vực dế giúp Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư quản lý và tổ chức các hoạt động của Luật sư trong khu vực. Chi nhánh Đoàn Luật sư là đơn vị trực thuộc của Đoàn Luật sư, hoạt động theo sự điều hành và chịu trách nhiệm trước Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư. Một thành viên của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư là Trưởng chi nhánh Đoàn Luật sư. Cơ cấu tổ chức, hội vụ, quyền hạn của Chi nhánh Đoàn Luật sư do Nội quy Đoàn Luật sư quy định. Việc thành lập Chi nhánh Đoàn Luật sư do Đại hội Luật sư quyết định.

III- NỘI QUY ĐOÀN LUẬT SƯ

Đoàn Luật sư có Nội quy để quy định chi tiết những vấn đề thuộc nội bộ Đoàn Luật sư. Việc thông qua, sửa đổi, bổ sung Nội quy thuộc thẩm quyền của Đại hội Luật sư. 

Nội quy Đoàn Luật sư bao gồm những nội dung sau đây: 

• Quy định cụ thệ về cơ cấu thành viên, lề lối làm việc của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn Luật sư; tuổi quan hệ giữa Ban Chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng, kỷ luật;

• Quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, lề lối làm việc của Văn phòng và các đơn vị chuyên môn Đoàn Luật sư; quy định về cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Đoàn Luật sư, việc chỉ đạo, diễu hành của Ban Chủ nhiệm đối với Chi nhánh Đoàn Luật sư, Văn Phòng và các đơn vị chuyên môn;

• Quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của Luật sư thành viên đổi với Đoàn Luật sư;

• Quy định chi tiết về thu, chỉ tài chính, quản lý tài sản của Đoàn Luật sư;

• Quy định về quan hệ của Đoàn Luật sư với Tổ chức hành nghề Luật sư;

• Các quy định do Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam giao Nội quy Đoàn Luật sư quy định.

• Các quy định của Nội quy Đoàn Luật sư không được trái với quy định của pháp luật và Điều lệ Liên đoàn.

Trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc, kể từ ngày thông qua hoặc sửa đổi, bổ sung Nội quy, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư gửi Liên đoàn Luật sư Việt Nam toàn văn Nội quy kèm theo Nghị Quyết thông qua hoặc sửa đổi, bổ sung Nội quy.

IV- THÀNH LẬP, GIẢI THỂ ĐOÀN LUẬT SƯ: 

1- Thành lập Đoàn luật sư: 

Về điều kiện thành lập Đoàn Luật sư: Có từ ba người sáng lập trở lên có Chứng chỉ hành nghề Luật sư tại mỗi tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
Ủy ban nhân dân tinh, thành phố trực thuộc Trung ương cho phép thành lập Đoàn Luật sư sau khi tỏ ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

2- Giải thế Đoàn luật sư:

Đoàn Luật sư bị giải thế trong các trường hợp sau đây;

- Không còn đủ ba Luật sư thành viên của Đoàn Luật sư;

- Không tổ chức lại Đại hội theo quy định tại khoản 5 Điều 21 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị Định số 137/2018/NĐ-CP của Chính phù);

- Hoạt động của Đoàn Luật sư vi phạm nghiêm trọng pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia. trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của nhở nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi (cho hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Trong trường hợp Đoàn Luật sư bị giải thể thì Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giải thể Đoàn Luật sư sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.7 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Đoàn luật sư

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.36892 sec| 1255.469 kb