Ngành Luật Hôn nhân và Gia đình

"Ở điểm cuối của cuộc đời, bạn sẽ không bao giờ nuối tiếc chuyện không vượt qua thêm một bài thi, chiến thắng thêm một tranh chấp, hay hoàn thành thêm một việc kinh doanh. Bạn sẽ nuối tiếc đã không sử dụng thời gian để ở bên cạnh vợ chồng, bạn bè, con cái, hay cha mẹ mình".

Barbara Bush, vợ của Tổng thống thứ 41 của Mỹ - George H. W. Bush

Ngành Luật Hôn nhân và Gia đình

Luật Hôn nhân là Gia đình Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thể chế hóa nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình về những lợi ích nhân thân và những lợi ích về tài sản. 

Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình có đặc điểm: Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo, có ý nghĩa quyết định; Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là một đặc điểm nổi bật; Quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người khác; Quyền và Nghĩa vụ bền vững, không phải đền bù ngang giá.

Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình là bình đẳng, thoả thuận, nhưng có đặc điểm riêng: Quyền đồng thời là Nghĩa vụ của các chủ thể; Các chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình; Các chủ thể không được thoả thuận để làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định; Quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với quy phạm đạo đức.

Liên hệ

I- KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1- Luật Hôn nhân và Gia đình

Luật Hôn nhân và Gia đình là một ngành luật độc lập: là quan điểm của đa số các chuyên gia nghiên cứu. Quan điểm này được chứng minh dựa trên nền tảng cơ sở kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất quyết định tính chất các quan hệ xã hội, kể cả quan hệ hôn nhân và gia đình.

Luật Hôn nhân và Gia đình với ý nghĩa là một ngành luật (độc lập), chỉ gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội giữa các thành viên gia đình: vợ và chồng, cha mẹ - các con, anh, chị, em... về những lợi ích thân nhân và những lợi ích về tài sản. Mặt khác, cũng chỉ những quan hệ thân nhân và quan hệ tài sản đặc thù mới thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình. Đối với những quan hệ thân nhân và tài sản, những phát sinh giữa các cơ quan nhà nuớc, tổ chức xã hội với các thành, viên của gia đình mặc dù nhằm củng cố gia đình, đều do các hgành luật khác điều chỉnh.

Lưu ý rằng, quan điểm Luật Hôn nhân và Gia đình là một ngành luật độc lập [?] chưa phải đã đạt được sự đồng thuận. Vẫn có quan điểm cho rằng, Luật Hôn nhân và Gia đình là một bộ phận chuyên ngành của Luật Dân sự. Cũng có quan điểm khác cho rằng, Luật Hôn nhân và Gia đình là một ngành luật hỗn hợp hoặc một ngành luật cùng loại với Luật Dân sự. Người viết bài này cho rằng, quan điểm "Luật Hôn nhân và Gia đình là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam" chủ yếu mang tính học thuật, tính tương đối và phụ thuộc vào hai tiêu chí: [1] đối tượng điều chỉnh và: [2] phương pháp điều chỉnh của ngành luật.

2- Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình

Về hình thức, đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình có nhiều điểm giống với đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự. Tuy nhiên, các quan hệ trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình vẫn có nhiều đặc điểm riêng so với Luật Dân sự. Những đặc điểm riêng này có ảnh hưởng lớn đến thi hành và áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.

Về nội dung, đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình có những đặc trưng: 

[1] Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định trong các quan hệ Hôn nhân và Gia đình.

[2] Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là một đặc điểm trong quan hệ Hôn nhân và Gia đình. Với tư cách là cha mẹ, vợ chồng, con trong mối quan hệ giữa họ với nhau thì điều gắn bó họ trước hết là tình cảm. Đó là tình thương yêu của vợ, chồng, tình máu mủ ruột thịt giữa cha mẹ và các con. 

[3] Quyền và nghĩa vụ Hôn nhân và Gia đình gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người khác được.

[4] Quyền và nghĩa vụ Hôn nhân và Gia đình bền vững, lâu dài, không mang tính chất đền bù ngang giá như các quyền khác trong luật dân sự. Tính chất này được quy định bởi tính chất bền vững, có một số quy định về quyền nhân thân và tài sản trong Hôn nhân và Gia đình (Điều 39, 43, 212, 213 Bộ luật Dân sự năm 2015). 

Dù có những đặc điểm riêng, các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình và các quan hệ dân sự là những loại quan hệ cùng loại. Những vấn đề về sở hữu, giám hộ trong gia đình đều có nguồn gốc chung từ Luật Dân sự. Trong các Bộ luật Dân sự Việt Nam đã có một số quy định về vấn đề kết hôn, ly hôn, tài sản chung của vợ chồng, của các thành viên khác trong gia đình và các vấn đề khác. 

3- Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình

Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh với các đặc điểm của riêng (nêu trên), phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình cũng có điểm giống với phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là là bình đẳng, thoả thuận. Tuy nhiên, phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình cũng có những đặc điểm riêng:

[1] Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền đồng thời là nghĩa vụ của các chủ thể. Ví dụ: Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chầm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chìa sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình...”. Theo quy định này, nghĩa vụ của vợ đồng thời là quyền của chồng và ngược lại.

[2] Các chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. 

[3] Các chủ thể không được phép bằng sự thoả thuận để làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định. 

[4] Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình được đảm bảo bởi tính cưỡng chế của Nhà nước trên tinh thần phát huy tính tự giác thông qua giáo dục, khuyến khích và hướng dẫn thực hiện.

4- Nguồn của Luật Hôn nhân và Gia đình

Nguồn của Luật Hôn nhân và Gia đình là các văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện ý chí của Nhà nước, trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật Hôn nhân và Gia đình:

- Luật và các Bộ luật: gồm Hiến pháp năm 2013; Luật Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989; Luật Giáo dục năm 2019; Luật Trẻ em năm 2016; Luật Bình đẳng giới năm 2006; Luật Hộ tịch năm 2014.

- Các văn bản dưới luật: gồm Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị định số 10/2015/1NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 98/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016); Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Luật Hôn nhân và Gia đình.

5- Một số vấn đề khác cần lưu ý

Ngoài việc hiểu: Luật Hôn nhân và Gia đình là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thì Luật Hôn nhân và Gia đình có thể hiểu theo các nghĩa:

Môn học Luật Hôn nhân và Gia đình: Là hệ thống những khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang tính chất lý luận về hôn nhân và gia đình và thực tiễn áp dụng, thi hành pháp Luật Hôn nhân và Gia đình.

Pháp luật về Hôn nhân và Gia đình: với ý nghĩa này, Luật Hôn nhân và Gia đình là một khái niệm tích hợp bởi khái niệm “Pháp luật” với khái niệm “Hôn nhân và Gia đình”.

Luật Hôn nhân và Gia đình (đạo luật): Văn bản pháp luật cụ thể là kết quả của công tác hệ thống hóa pháp luật, xây dựng pháp luật, trong đó chứa đựng những quy phạm của nhiều ngành luật, tuy nhiên nội dung chủ yếu là quy phạm của một ngành luật cơ bản nào đó. Ví dụ: Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về Hợp đồng hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest

II- NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1- Nguyên tắc hôn nhân tự nguyên, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ:

Hôn nhân chỉ tự do khi nó được xây dựng dựa trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ. Nghĩa là, hôn nhân không bị những tính toán vật chất, địa vị xã hội chi phối. Nhưng lưu ý, Nhà nước chỉ bảo hộ hôn nhân tự nguyện, nghĩa là trong quan hệ hôn nhân, khi kết hôn cũng như khi ly hôn, hai bên hoàn toàn tự nguyện. Còn việc kết hôn đó có phải là kết quả của tình yêu hay không thì dù đó là mục tiêu hướng tới, nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật. 

Hiến pháp Việt Nam quy định: “1- Nam nữ cỏ quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyên, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2- Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi bà mẹ và trẻ em” (Điều 36 Hiến pháp năm 2013).

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đều có quy định trực tiếp về chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Cụ thể: Quy định các hành vi bị cấm và các phương thức bảo vệ chế độ hôn nhân và gia  đìnhL cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; cấm kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo, cấm yêu sách của cải trong kết hôn (Điều 5). "Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định" (Điều 8). 

Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ cũng đồng thời phải đảm bảo tự do ly hôn, nếu như không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể ép buộc họ tiếp tục cuộc sống vợ chồng, khi hạnh phúc gia đình đã không thể hàn gắn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tất nhiên tự do ly hôn không có nghĩa là ly hôn tuỳ tiện. Việc ly hôn phải đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Trong mọi trường họp yêu cầu ly hôn, Tòa án phải tiến hành hòa giải. Tòa án chỉ có thể xử cho ly hôn khi thấy quan hệ vợ chồng thực sự đã đến “tĩnh trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). 

- Hôn nhân một vợ một chồng: 

Nguyên tắc một vợ một chồng xây dựng trên nền tảng hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và nam nữ bình đẳng nhằm xóa bỏ chế độ đa thê trong hôn nhân thời phong kiến, coi rẻ phụ nữ, gây nhiều đau khổ cho phụ nữ. Bản chất của hôn nhân tự nguyện trên cơ sở tình yêu nam nữ là hôn nhân một vợ một chồng. Mặt khác, chế độ một vợ một chồng đảm bảo tình yêu giữa họ thực sự bền vững, duy trì, củng cố hạnh phúc gia đình. Hôn nhân một vợ một chồng lâu dài, bền vững và thực sự hạnh phúc. 

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Cấm người đang có vợ, cỏ chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác” (Điều 4). Điều đó được khẳng định lại trong Điểm c Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 với quy định những trường hợp cấm kết hôn. Như vậy, nguyên tắc một vợ một chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là sự kế thừa và phát triển nguyên tắc đó trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, năm 1986, và năm 2000.

Để đảm bảo chế độ một vợ một chồng được thực hiện cả trong thực tế cuộc sống, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và năm 2014 còn quy định cấm những người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác như vợ chồng. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa, tư tưởng và nhận thức của mỗi người.

Việc thực hiện chế độ một vợ một chồng gắn liền với quyền bình đẳng giữa nam và nữ và do đó chỉ đến lúc quyền bình đẳng được xác lập hoàn toàn mới xác lập vững chắc chế độ một vợ một chồng. 

- Vợ chồng bình đẳng: 

Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình, trên cơ sở nguyên tắc nam nữ bình đẳng mà Hiến pháp đã quy định. 

Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ được cụ thể hóa trong hầu hết các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Điều 2, Điều 4, Điều 17 đến Điều 23). “Vợ, chồng bình đắng với nhau, cỏ quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp... ” (Điều 17). “Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thoả thuận” (Điều 20). Đặc biệt, nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là một bước phát triển so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 khi xác định chế độ tài sản của vợ chồng: về chế độ tài sản chung theo thỏa thuận (Điều 28, 29, 33, 35, 36, 37, 38, 47, 48, 49); về chia tài sản ly hôn (Điều 59, 61, 62, 63, 64), về cấp dưỡng lẫn nhau giữa vợ chồng (Điều 107,115).

2- Nguyên tắc hôn nhân giữa công dân Vỉệt Nam thuộc các dần tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ

Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa Hiến pháp và các Công ước quốc tế về quyền tự do và bình đẳng của con người và công dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Việc kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo, quốc tịch khác nhau là trên cơ sở tự do lựa chọn của những người trong cuộc, không bị ai cưỡng ép hoặc cản trở. 

Nhằm đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế và thực hiện cam kết của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế, pháp luật Việt Nam đã có những quy định thể hiện quan điểm tôn trọng, bảo vệ quyền tự do, bình đẳng về hôn nhân và gia đình của mọi người, không phân biệt đối xử. Quy định tại Điều 121 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “1- Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên... 3- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế”.

3- Nguyên tắc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chẫm sóc, giúp đỡ nhau; khồng phân biệt đối xử giữa các con

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định một nguyên tắc cơ bản là tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và các con, các thành viên khác trong gia đình; Đề cao trách nhiệm cá nhân đối với gia đình. 

Đây là một nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình được xác định theo tinh thần mới. Nếu như các đạo luật trước đó chỉ nhấn mạnh bảo vệ quyền lợi của các con, không bảo đảm quyền lợi của cha, mẹ, thì Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 một mặt bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con, mặt khác giáo dục tinh thần trách nhiệm giữa họ với nhau: “Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân cỏ ích cho xã hội. Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ” (Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000). 

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, một mặt khẳng định nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con, mặt khác xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của các thành viên khác trong gia đình nhằm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Chương V (từ Điều 68 đến Điều 87) quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ nhân thân, quyền và nghĩa vụ tài sản giữa cha mẹ - các con. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định: “Không được phân biệt đổi xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động... ” (Điều 69). 

Mục 2 Chương V Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (từ Điều 88 đến Điều 102) quy định việc xác định quan hệ cha mẹ, các con trên tinh thần bảo vệ lợi ích của các con, bảo đảm thực hiện quyền làm mẹ của phụ nữ, đồng thời ổn định quan hệ gia đình trong thời đại bùng nổ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Cùng với những quy định về việc xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 bổ sung những quy định cụ thể về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, quyền, nghĩa vụ các bên, giải quyết tranh chấp và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ (Điều 93 đến Điều 100). 

Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con nhằm xác định nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ phải chăm sóc nuôi dưỡng con đảm bảo sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức, đồng thời phải giáo dục con có trách nhiệm với cha mẹ. Trên tinh thần đó, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định trách nhiệm pháp lý giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quyền, nghĩa vụ của con dâu, con rể, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng (Điều 80). Mặt khác, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã đề cao trách nhiệm pháp lí giữa các thành viên trong gia đình như ông, bà với các cháu; cha, mẹ với các con; anh, chị, em với nhau và các thành viên khác (Chương VI và Chương VII).

Sự thay đổi trong quan điểm về gia đình và điều chỉnh pháp luật các quan hệ gia đình trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thể hiện tinh thần “xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con”, là hoàn toàn phù hợp với truyền thống đạo đức, văn hóa pháp lý và xu thế chung của thời đại, đề cao vai trò gia đình và bảo vệ quyền con người, về cơ bản, nguyên tắc này là sự kế thừa và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. 

Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hô trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hỉện kế hoạch hóa gia đình. Trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thuộc nhóm những người yếu thế trong xã hội. Nguyên tắc này được xác định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là sự cụ thể hóa Hiến pháp về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Đây cũng là sự kế thừa và phát triển Luật Hôn nhân và Gia đinh năm 1959, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, xác định rõ hơn quan điểm về bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo đảm thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình của người khuyết tật, người cao tuổi. 

Bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại, bạo lực gia đình là một trong những hiểm họa đe dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của các thành viên gia đình, mà trước hết là những người thuộc nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi. Vì vậy, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định các hành vi bị cấm, trong đó có bạo lực gia đình; lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. 

Ngoài các điều khoản quy định việc đảm bảo giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ, quy định hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong trường hợp người vợ đang mang thai, sinh con, hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, quy định nuôi con nuôi nhằm mục đích chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em nhất là trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, việc xác định quan hệ cha mẹ - các con với tinh thần bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, trong đó có bà mẹ đơn thân, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 còn có các quy định cụ thể về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

4- Nguyên tắc kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình

Mỗi quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình đều chứa đựng tinh thần kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, gắn kết với đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình. Những quy định về quan hệ vợ chồng, cha mẹ, các con; những quy định về quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng.

Những quy định về quan hệ vợ chồng, cha mẹ, các con; những quy định về quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quan hệ giữa bố mẹ chồng với con dâu, bố mẹ vợ với con rể (Điều 80); quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình (Chương VI). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khẳng định: “Nhà nước có chỉnh sách tạo điều kiện đế các thế hệ trong gia đình quan tâm, chẫm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; khuyến khích các cả nhân, tổ chức trong xã hội cùng tham gia vào việc giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam” (Điều 103).

Xem thêm: Dịch vụ luật sư trong vụ, việc ly hôn của Công ty Luật TNHH Everest

III- ​​​CÁC CHẾ ĐỊNH CƠ BẢN CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1- Quy định chung 

Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.

2- Kết hôn

Về các quy định kết hôn đúng và trái với pháp luật, việc kết hôn được đề cập tới là sự việc do nam nữ tự nguyện, là việc cả hai xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn. 

Khi tìm hiểu về Luật Hôn nhân và Gia đình, có thể thấy quy định về điều kiện đăng ký kết hôn gồm có điều kiện về độ tuổi kết hôn; sự tự nguyện của hai bên khi kết hôn; các trường hợp cấm kết hôn, xử lý vi phạm chế độ hôn nhân…. Khi kết hôn phải tới đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, ở đây là cơ quan hộ tịch địa phương nơi cư trú.  

Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam còn quy định về những trường hợp được phép hủy bỏ quan hệ hôn nhân trái pháp luật, người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, hậu quả pháp lý của hôn nhân trái pháp luật. Khái niệm hôn nhân và gia đình có thể phụ thuộc vào nhận thức của từng người, nhưng phải phù hợp với ý chí của luật pháp hiện hành.  

3- Quan hệ giữa vợ và chồng

Quyền, lợi ích và nghĩa vụ của vợ chồng phải xuất phát từ những quyền cơ bản của công dân. Nói về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng tức là nói tới những lợi ích tinh thần, tình cảm gia đình, sự quan tâm và tôn trọng lẫn nhau, quan hệ giữa cha mẹ với các con và với những thành viên trong gia đình... Bên cạnh đó, không thể không nói đến các quyền, nghĩa vụ đối với tài sản của vợ chồng như quyền sở hữu, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng, quyền thừa kế tài sản;… Những khái niệm Luật Hôn nhân và Gia đình đề cập luôn kết hợp hài hòa cùng với các quy tắc đạo đức, lẽ sống trong xã hội.

4- Quan hệ giữa cha mẹ và con cái 

Luật Hôn nhân và Gia đình còn quy định quyền và nghĩa vụ của bố mẹ với con chưa thành niên. Trong đó bao gồm các nội dung như nghĩa vụ nuôi dưỡng, thương yêu, trông nom, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; quyền và nghĩa vụ giáo dục con... Con từ khi sinh ra đến khi đủ 18 tuổi thuộc nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc của bố mẹ. 

Bên cạnh đó, con cái cũng có nghĩa vụ chăm sóc và nuôi dưỡng cha, mẹ. Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc luôn mang tính nhân thân. Bên cạnh nghĩa vụ nuôi dưỡng còn có nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con cái. Cho dù hôn nhân và gia đình trong xã hội hiện nay có nhiều thay đổi, nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng cũng không thể bị thay thế bằng nghĩa vụ khác. 

5- Quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình

Các thành viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng nhau. Quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản của các thành viên gia đình quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan được pháp luật bảo vệ. Trong trường hợp sống chung thì các thành viên gia đình phải có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp công sức, tiền hoặc tài sản khác để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong xã hội cùng tham gia vào việc giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.

6- Chấm dứt hôn nhân, ly hôn, giải quyết quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của vợ, chồng, con sau ly hôn, chấm dứt hôn nhân

Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định cụ thể về việc chấm dứt hôn nhân. Trong trường hợp hai bên muốn kết thúc quan hệ vợ chồng, hoặc một bên muốn ly hôn đơn phương vì mục đích hôn nhân không đạt được, Tòa án giải quyết ly hôn cho vợ chồng theo quy định pháp luật. Hôn nhân chỉ chính thức chấm dứt khi có bản án ly hôn Tòa đưa ra. 

Khi một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng đã chết, luật quy định về thời điểm chấm dứt hôn nhân là thời điểm tuyên bố một bên qua đời. Việc giải quyết tài sản của vợ chồng; quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố đã chết mà trở về tuân thủ quy định của bộ luật. 

7- Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

Hôn nhân có yếu tố nước ngoài được pháp luật bảo hộ và tôn trọng. Khi kết hôn có yếu tố nước ngoài, việc hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu về hôn nhân và gia đình được tạo điều kiện tối đa. Mọi giấy tờ trong quá trình giải quyết các sự vụ trong hôn nhân phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ các trường hợp được pháp luật cho phép. Giải quyết các vấn đề hôn nhân tuân theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài nơi một trong các bên mang quốc tịch.

8- Cấp dưỡng

Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.

Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu cấp dưỡng theo quy định của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Xem thêm: Thù lao luật sư và Chi phí pháp lý tại Công ty Luật TNHH Everest

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.1 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Ngành Luật Hôn nhân và Gia đình

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
1.36261 sec| 1197.203 kb