Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
Nếu không có người xấu thì chẳng thể có Luật sư
- Charles Dickens -
Về bản chất pháp lí, nghiệp vụ chiết khấu chỉ là quan hệ mua bán giấy tờ có giá nhưng việc mua bán này không hoàn toàn giống như việc mua bán một trái quyền dân sự hay mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán, bởi lẽ, nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá còn là một nghiệp vụ tín dụng. Vì thế, thủ tục chiết khấu các giấy tờ có giá ở tổ chức tín dụng có tính đặc thù, vừa mang dáng dấp của quan hệ mua bán giấy tờ có giá, vừa thể hiện trình tự giống như việc giao kết hợp đồng tín dụng và Nhằm mục đích thoả mãn các nhu cầu đa dạng của khách hàng và tổ chức tín dụng trong quan hệ chiết khấu giấy tờ có giá, pháp luật hiện hành đã dự liệu các phương thức chiết khấu giấy tờ có giá gồm (i) Chiết khấu có thời hạn giấy tờ có giá và(ii) Chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi khoản nợ phát sinh từ giấy tờ có giá.
Mặc dù về bản chất pháp lí, nghiệp vụ chiết khấu chỉ là quan hệ mua bán giấy tờ có giá nhưng việc mua bán này không hoàn toàn giống như việc mua bán một trái quyền dân sự hay mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán, bởi lẽ, nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá còn là một nghiệp vụ tín dụng. Vì thế, thủ tục chiết khấu các giấy tờ có giá ở tổ chức tín dụng có tính đặc thù, vừa mang dáng dấp của quan hệ mua bán giấy tờ có giá, vừa thể hiện trình tự giống như việc giao kết hợp đồng tín dụng.
Theo quy định hiện hànhthủ tục chiết khấu giấy tờ có giá bao gồm các bước sau đây:
- Bước thứ nhất, khách hàng có nhu cầu chiết khấu lập hồ sơ xin chiết khấu theo mẫu quy định và gửi cho tổ chức tín dụng nơi mình lựa chọn. Hồ sơ xin chiết khấu bao gồm các tài liệu như giấy đề nghị chiết khấu; bảng kê giấy tờ có giá kèm theo bản gốc các giấy tờ có giá đề nghị chiết khấu; các giấy tờ khác chứng minh năng lực chủ thể của khách hàng là tổ chức, cá nhân đề nghị chiết khấu...
- Bước thứ hai, tổ chức tín dụng nơi nhận hồ sơ chiết khấu tiến hành thẩm định các điều kiện chiết khấu đối với mỗi giấy tờ có giá do khách hàng đề nghị chiết khấu.
Nếu chấp thuận chiết khấu, tổ chức tín dụng gửi cho khách hàng một văn bản ghi rõ danh mục các giấy tờ có giá được chiết khấu; tổng mệnh giá được chiết khấu, số tiền lợi tức chiết khấu bị khấu trừ, tổng số tiền còn lại khách hàng được hưởng. Trong trường hợp từ chối chiết khấu thì tổ chức tín dụng phải hoàn trả lại cho khách hàng những giấy tờ có giá không được chiết khấu, kèm theo văn bản trả lời có ghi rõ lí do từ chối chiết khấu. Nếu tổ chức tín dụng không trả lời hoặc trả lời không bằng văn bản thì có thể họ sẽ bị đối kháng bởi khách hàng bằng thủ tục khiếu nại theo quy định của pháp luật.
- Bước thứ ba, trong trường hợp được tổ chức tín dụng chấp nhận chiết khấu, khách hàng làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu các giấy tờ có giá được chấp thuận chiết khấu cho tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật về chuyển nhượng đối với mỗi loại giấy tờ có giá.
- Bước thứ tư, trên cơ sở các giấy tờ có giá đã được chuyển giao quyền sở hữu, tổ chức tín dụng thanh toán cho khách hàng số tiền mà họ được hưởng, sau khi đã khấu trừ đi phần lợi tức chiết khấu, tái chiết khấu và các khoản phí dịch vụ (nếu có).
Riêng đối với trường hợp các bên có thỏa thuận chiết khấu với điều khoản cam kết mua lại (hay chiết khấu có thời hạn - theo cách gọi của người soạn luật), khi khách hàng đã thực hiện đúng cam kết mua lại giấy tờ có giá thì tổ chức tín dụng phải làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho khách hàng (với tư cách là người mua giấy tờ có giá) theo thủ tục luật định và nhận tiền thanh toán giấy tờ có giá theo giá cả do các bên đã thoả thuận trong hợp đồng chiết khấu.
Ngoài các quy định trên đây về thủ tục chiết khấu giấy tờ có giá, pháp luật còn quy định quyền yêu cầu của tổ chức tín dụng đối với người có nghĩa vụ trả tiền theo giấy tờ có giá khi giấy tờ có giá đến hạn thanh toán. Trong trường hợp giấy tờ có giá không được thanh toán bởi người mắc nợ theo giấy tờ có giá thì tổ chức tín dụng có quyền khởi kiện chính người mắc nợ (kể cả những người có nghĩa vụ liên đới với món nợ trên giấy tờ có giá, nếu có) tại một cơ quan tài phán có thẩm quyền theo luật định. Riêng đối với trường hợp chiết khấu các giấy tờ có giá là công cụ chuyển nhượng như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc, nếu tổ chức tín dụng đã xuất trình họp lệ (với tư cách là người sở hữu) mà vẫn không được thanh toán bởi người mắc nợ thì do đó tổ chức tín dụng có quyền quay lại truy đòi đối với khách hàng được chấp nhận chiết khấu (kể cả những người khác đã từng đứng tên sở hữu công cụ chuyển nhượng hoặc đứng tên bảo lãnh trên công cụ chuyển nhượng).
Việc truy đòi như trên đây không phải là thủ tục trong quy trình nghiệp vụ chiết khấu mà chỉ là hệ quả pháp lí của việc các bên cam kết về điều khoản bảo lưu quyền truy đòi trong hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.
Nhằm mục đích thoả mãn các nhu cầu đa dạng của khách hàng và tổ chức tín dụng trong quan hệ chiết khấu giấy tờ có giá, pháp luật hiện hành đã dự liệu hai phương thức chiết khấu giấy tờ có giá để các bên lựa chọn.
Các phương thức này bao gồm:
(i) Chiết khấu có thời hạn giấy tờ có giá (mua có điều khoản cam kết bán lại giấy tờ có giá cho khách hàng sau thời hạn nhất định theo yêu cầu của khách hàng);
(ii) Chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi khoản nợ phát sinh từ giấy tờ có giá (mua có điều khoản cho phép tổ chức tín dụng được quyền truy đòi đối với khách hàng xin chiết khấu nếu đến hạn mà tổ chức tín dụng không được thanh toán từ người có nghĩa vụ trả tiền theo giấy tờ có giá).
Chiết khấu có kỳ hạn (mua có kỳ hạn) giấy tờ có giá là việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua và nhận chuyển nhượng quyền sở hữu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán từ khách hàng, đồng thời khách hàng cam kết sẽ mua lại giấy tờ có giá đó sau một khoảng thời gian được xác định tại hợp đồng chiết khấu.
về bản chất, chiết khấu có thời hạn giấy tờ có giá là thỏa thuận, theo đó tổ chức tín dụng cam kết mua giấy tờ có giá của khách hàng theo giá chiết khấu do các bên thỏa thuận và khách hàng cam kết sẽ mua lại giấy tờ có giá đó từ tổ chức tín dụng trong thời hạn nhất định, trước khi đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá.
Với phương thức này, khách hàng phải chuyển giao ngay quyền sở hữu giấy tờ có giá cho tổ chức tín dụng nhưng có cam kết sẽ mua lại chính các giấy tờ có giá đó trong một khoảng thời gian nhất định (thời gian này tính từ khi hợp đồng chiết khấu có hiệu lực cho đến khi giấy tờ có giá đến hạn thanh toán). Do các bên có thỏa thuận mua, bán lại giấy tờ có giá đã chiết khấu nên cả hai bên đều bị ràng buộc với cam kết này.
Về phía khách hàng, họ có bổn phận phải thực hiện cam kết mua lại giấy tờ có giá đã chiết khấu trong thời hạn cam kết mua lại. về phía tổ chức tín dụng, do chủ thể này cũng bị ràng buộc với cam kết bán lại cho khách hàng trong thời hạn ghi trong hợp đồng chiết khấu nên về nguyên tắc, quyền sở hữu của tổ chức tín dụng (trong thời hạn cam kết bán lại) là không tuyệt đối và không trọn vẹn. Nói cách khác, với cam kết bán lại giấy tờ có giá cho khách hàng, tổ chức tín dụng bị hạn chế về khả năng định đoạt đối với các giấy tờ có giá đã mua (không thể chuyển nhượng giấy tờ có giá đã mua cho bất kỳ chủ thể nào khác ngoài chủ thể duy nhất là khách hàng, trong thời hạn đã cam kết tại hợp đồng chiết khấu).
Trường hợp nếu đến hạn mua lại mà khách hàng không thực hiện cam kết mua lại hoặc tổ chức tín dụng không thực hiện cam kết bán lại thì có nghĩa là các chủ thể này đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và do đó họ sẽ bị áp dụng các chế tài tương ứng theo thoả thuận trong hợp đồng chiết khấu hoặc theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi (hay mua có bảo lưu quyền truy đòi) giấy tờ có giá là việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua và nhận quyền sở hữu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán từ khách hàng; khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đối với số tiền chiết khấu, lãi chiết khấu và các chi phí hợp pháp khác có liên quan đến hoạt động chiết khấu trong trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không nhận được đầy đủ số tiền được thanh toán từ người có trách nhiệm thanh toán công cụ chuyển nhượng, người phát hành giấy tờ có giá khác.
Về bản chất, chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi là thỏa thuận, theo đó tổ chức tín dụng và khách hàng cam kết sẽ trao cho tổ chức tín dụng quyền được truy đòi đối với khách hàng xin chiết khấu nếu đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá mà người có nghĩa vụ thanh toán theo giấy tờ có giá không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng.
Với điều khoản cho phép tổ chức tín dụng được quyền truy đòi, khách hàng xin chiết khấu sẽ tiếp tục bị ràng buộc với món nợ phát sinh từ giấy tờ có giá đã được chiết khấu. Nói cách khác, sau khi đã hoàn tất thủ tục “bán” giấy tờ có giá cho tổ chức tín dụng theo phương thức chiết khấu, khách hàng vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc với món nợ mà mình đã chuyển nhượng cho tổ chức tín dụng, nghĩa là vẫn thể bị tổ chức tín dụng “truy đòi” nếu đến hạn mà người có nghĩa vụ trả tiền theo giấy tờ có giá không thực hiện nghĩa vụ của họ đối với tổ chức tín dụng.
Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm