Xác định cha, mẹ, con, con nuôi có yếu tố nước ngoài
1- Xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài
[a] Các trường hợp xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài
(i) Người nước ngoài xác định công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài thường trú ở Việt Nam là cha, mẹ, con.
(ii) Công dân Việt Nam xác định người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là cha, mẹ, con.
(iii) Người nước ngoài xác định công dân Việt Nam cư trú ở nước họ là cha, mẹ, con.
(iv) Công dân Việt Nam xác định công dân Việt Nam là cha, mẹ, con mà ít nhất một trong hai bên định cư ở nước ngoài.
[b] Thẩm quyền và pháp luật được áp dụng trong việc xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài
Điều 128 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Cơ quan đăng ký hộ tịch Việt Nam có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con mà không có tranh chấp giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà ít nhất một bên định cư ở nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau mà ít nhất một bên thường trú tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 2. Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết việc xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 88, Điều 89, Điều 90, Khoản 1, Khoản 5 Điều 97, Khoản 3, Khoản 5 Điều 98 và Điều 99 của Luật này; các trường hợp khác có tranh chấp’’.
Như vậy, thẩm quyền xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài được dựa vào tiêu chí là các bên có sự tự nguyện và các bên còn sống vào thời điểm có yêu cầu; các bên có tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con hoặc một trong hai bên đã chết.
Tuy nhiên, trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định cụ thể về nguyên tắc áp dụng Luật cho trường hợp xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài. Trong khi đó, các HĐTTTP quy định áp dụng hệ thống pháp luật mà người con mang quốc tịch khi sinh ra - đây là một nguyên tắc chủ đạo. Ví dụ: Điều 28 Hiệp định số 39/LPQT ngày 17/4/2000 về tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Mông cổ quy định: “Đối với việc xác định và huỷ bỏ quan hệ cha con sẽ áp dụng pháp luật của bên ký kết mà người con là công dân khi sinh ra”. Ngoài ra, Hiệp định giữa Việt Nam với Lào quy định áp dụng hệ thống pháp luật của bên ký kết nơi đứa trẻ cư trú vào thời điểm có đơn yêu cầu xác định cha mẹ cho con: “Việc xác định cha mẹ cho con và truy nhận con ngoài giá thú tuân theo pháp luật của nước kí kết nơi người con cư trú vào thời điểm có đơn yêu cầu” (Khoản 1 Điều 29 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào).
Đối với trường hợp xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại cơ quan đăng ký hộ tịch:
- Thẩm quyền: ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của người được nhận là cha, mẹ, con (Điều 43 Luật Hộ tịch năm 2014).
- Thủ tục (Điều 44 Luật Hộ tịch năm 2014):
+ Người có yêu cầu nộp tờ khai theo mẫu và giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con.
+ Trong trường hợp đăng ký nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau thì người nước ngoài phải nộp thêm bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu để chứng minh về nhân thân.
- Thời hạn thực hiện việc đăng ký nhận cha, mẹ, con tổng cộng là 22 ngày. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện sẽ giải quyết khi có đủ điều kiện nhận cha, mẹ, con và khi đăng ký nhận cha, mẹ, con thì các bên phải có mặt, công chức làm công tác hộ tịch ghi vào sổ hộ tịch, cùng các bên kí vào sổ hộ tịch. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho các bên.
Đối với trường hợp xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Tòa án được thực hiện theo trình tự, thủ tục đối với một vụ việc về hôn nhân và gia đình được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest
2- Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
[a] Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài
(i) Theo Luật Nuôi con nuôi thì các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm:
- Người nước ngoài nhận trẻ em là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam làm con nuôi.
- Người nước ngoài nhận trẻ em là công dân Việt Nam thường trú tại nước ngoài làm con nuôi.
- Nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một trong hai bên định cư ở nước ngoài.
- Công nhận việc nuôi con nuôi của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài giữa công dân Việt Nam với con nuôi là người nước ngoài.
- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi.
- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.
(ii) Chủ thể của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Việc quy định này nhằm đảm bảo việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đảm bảo đúng mục đích, ý nghĩa xã hội của nó, tránh tối đa tình trạng lợi dụng việc nuôi để trục lợi.
(iii) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
- Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
- Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
- Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
- Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi;
- Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm.
[b] Pháp luật áp dụng đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài: được thực hiện theo nguyên tắc sau:
(i) Luật nơi thường trú của người nhận nuôi con nuôi.
(ii) Luật nơi đăng ký việc nuôi con nuôi.
(iii) Luật nơi thường trú của người con nuôi
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải đáp ứng điều kiện của người nhận nuôi nói chung và điều kiện về việc nuôi con nuôi theo pháp luật nơi thường trú của người đó.
- Người Việt Nam nhận trẻ em là người nước ngoài làm con nuôi phải đáp ứng điều kiện của người nhận nuôi con nuôi nói chung và điều kiện về việc nuôi con nuôi theo pháp luật nơi thường trú của người được nhận làm con nuôi.
[c] Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi thường trú của người được nhận nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi; hoặc ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng có trẻ em được nhận làm con nuôi quyết định cho trẻ em làm con nuôi trong trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi sau khi có quyết định của ủy ban nhân dân.
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết việc chấm dứt việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
[d] Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Hồ sơ của người nhận nuôi con nuôi :
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy tờ, tài liệu sau: Đơn xin nhận con nuôi; bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam; bản điều tra về tâm lí, gia đình; văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe; văn bản xác nhận thu nhập và tài sản; phiếu lí lịch tư pháp; văn bản xác nhận tinh trạng hôn nhân; tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích danh quy định tại Khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Tùy từng trường hợp, tài liệu chứng minh có thể là: Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của cha dượng hoặc mẹ kế với mẹ đẻ hoặc cha đẻ của người được nhận làm con nuôi; hoặc giấy tờ, tài liệu để chứng minh người nhận con nuôi là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi; hoặc bản sao quyết định của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cho người đó nhận con nuôi Việt Nam và giấy tờ, tài liệu để chứng minh người con nuôi đó với trẻ được nhận làm con nuôi là anh, chị, em ruột; hoặc giấy tờ, tài liệu để chứng minh trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ bị sứt môi, hở hàm ếch, trẻ em bị mù một hoặc cả hai mắt, trẻ em bị câm, điếc, trẻ em bị khoèo chân, tay, trẻ em không có ngón hoặc bàn chân, tay, trẻ em nhiễm HIV, trẻ em mắc các bệnh về tim, trẻ em bị thoát vị rốn, bẹn, bụng, trẻ em không có hậu môn hoặc bộ phận sinh dục, trẻ em bị các bệnh về máu, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác mà cơ hội được nhận làm con nuôi bị hạn chế; hoặc giấy xác nhận của ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi cư trú tại Việt Nam và giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh người nhận con nuôi là người nước ngoài đang làm việc, học tập liên tục tại Việt Nam trong thời gian ít nhất là một năm, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi.
Phiếu lý lịch tư pháp, văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe, bản điều tra về tâm lý, gia đình, văn bản xác nhận thu nhập và tài sản của người nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài có giá trị sử dụng nếu cấp chưa quá mười hai tháng tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi.
- Người nhận nuôi con nuôi không có bất kỳ sự tiếp xúc nào với cha mẹ, người giám hộ, cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi nhận được thông báo giới thiệu trẻ em làm con nuôi, trừ trường hợp xin nhận nuôi đích danh.
- Sau khi có quyết định cho trẻ em làm con nuôi, Sở Tư pháp thông báo cho người nhận con nuôi đến Việt Nam để trực tiếp nhận con nuôi (thời hạn là 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo; nếu kéo dài vì có lý do chính đáng thì tối đa không quá 90 ngày). Nếu vợ chồng là người nhận con nuôi nhưng vì lý do khách quan mà một trong hai bên không có mặt tại lễ giao nhận con nuôi thì phải có ủy quyền cho người kia. Hết thời hạn quy định, nếu người nhận nuôi không đến nhận con nuôi thì ủy ban nhân dân tỉnh hủy quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài.
- Việc giao nhận con nuôi phải được lập thành văn bản để báo cáo cho các cơ quan có thẩm quyền biết nhằm áp dụng các biện pháp hỗ trợ trẻ em được nhận làm con nuôi trong những trường hợp cần thiết.
- Cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo tình hình phát triển của con nuôi trong thời hạn 03 năm với định kỳ 06 tháng/01 lần (tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình và cộng đồng).
- Các trường hợp khác như công dân Việt Nam ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi; Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi; Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới cũng có thủ tục tương tự như trên.
Xem thêm:Dịch vụ pháp lý về hợp đồng hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest
3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Xác định cha, mẹ, con, con nuôi có yếu tố nước ngoài được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Xác định cha, mẹ, con, con nuôi có yếu tố nước ngoài có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm