Chủ sở hữu quyền tác giả theo luật sở hữu trí tuệ

08/04/2025
Lý Thông
Lý Thông
Chủ sở hữu quyền tác giả là người (hoặc tổ chức) nắm giữ quyền tài sản đối với tác phẩm, dù không trực tiếp tạo ra nó. Tác giả có quyền nhân thân, còn quyền tài sản và công bố thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Việc phân biệt hai khái niệm này rất quan trọng để xác định phạm vi quyền lợi với tác phẩm.

1- Chủ sở hữu quyền tác giả là tác giả

Là người sử dụng thời gian, chi phi cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để trực tiếp tạo ra tác phẩm. Trường hợp này, tác phẩm là kết quả của sự đầu tư trí tuệ, thời gian, tài chính, cơ sở vật chất của chỉnh tác giả. Việc tạo ra tác phẩm là do tác giả quyết định, không phải do người khác thuê hay giao nhiệm vụ cho tác giả sáng tạo. Với tư cách vừa là tác giả, vừa là chủ sở hữu quyền tác giả nên toàn bộ các quyền nhân thân cũng như quyền tài sản có được tử tác phẩm sẽ thuộc về tác giả.

Nếu tác phẩm do nhiều người sử dụng thời gian tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của minh để cùng tạo ra tác phẩm thì họ là đồng tác giả và đồng thời là đồng chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm đó. Về bản chất, đồng tác giả trong trường hợp này là các chủ sở hữu chung hợp nhất, có chung các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý sở hữu trí tuệ

2- Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả

Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả trong những trường hợp như: tác giả sáng tạo ra tác phẩm theo nhiệm vụ, theo hợp đồng hoặc tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả đã chết nhưng quyền tác giả được chuyển giao cho người thừa kế... Chủ sở hữu quyền tác giả được xác định là các cá nhân, tổ chức sau:

(i) Cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả:

Tạo ra tác phẩm về nguyên tắc chung, những sản phẩm do người lao động tạo ra trong quan hệ lao động đều thuộc về người chủ sử dụng lao động vì người lao động làm việc theo sự chỉ đạo, phân công nhiệm vụ của người chủ và được trả lương để thực hiện công việc đó. Vì vậy, khi sản phẩm lao động là những tác phẩm - sáng tạo tinh thần thi vấn đề đặt ra là tác phẩm đỏ sẽ thuộc về người lao động - tác giả hay người chủ sử dụng lao động

Tác phẩm được tạo ra theo nhiệm vụ là tác phẩm mà việc sáng tạo ra chúng là nghĩa vụ của người lao động. Trường hợp này, giữa tác giá và cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ có mối quan hệ lao động và tác phẩm được tạo ra theo nhiệm vụ chuyên môn do cơ quan, tổ chức nơi tác già làm việc giao cho. "Quan hệ lao động" được xác định thông qua hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động, quyết định tuyển dụng hay bất cứ tài liệu nào khác để chứng minh tác gia là "người lao động" trong cơ quan, tổ chức đó. Tác giả là người làm công ăn lương và được chủ lao động bảo  đảm các điều kiện về cơ sở vật chất để làm việc. Nhiệm vụ liên quan đến việc tạo ra tác phẩm có thể xác định dựa trên quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người lao động được quy định trong hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động, quy chế làm việc của cơ quan, tổ chức; hoặc quyết định giao nhiệm vụ, biên ban phân công nhiệm vụ... cụ thể. Điểm quan trọng mấu chốt để xác định cơ quan, tổ chức là chủ sở hữu quyền tác giả khi việc sáng tạo tác phẩm là một nhiệm vụ mà cơ quan, tổ chức đỏ giao cho tác giả phải thực hiện. Do đó, các yêu tổ như: công việc sáng tạo tác phẩm được thực hiện ở đầu (trong hay ngoài trụ sở làm việc), vào thời gian nào (trong thời gian làm việc chính thức hay ngoài giờ), không đóng vai trò quyết định ai là chủ sở hữu quyền tác giả. Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm cho tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả, có quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản theo quy định của luật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Tác phẩm được tạo ra ngoài khuôn khổ nhiệm vụ là tác phẩm do người lao động tạo ra nhưng không phải là do thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Tác giả khi sáng tạo tác phẩm không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ lao động, do đó tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả.

(ii) Cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giá:

Đây là trường hợp tác phẩm được tạo ra theo hợp đồng dân sự, trong đó cá nhân, tổ chức thỏa thuận về việc tác giá sáng tạo tác phẩm theo đặt hàng của họ và được trả tiền. Vi tác phẩm là một sản phẩm mang tính vô hình nên việc xác định ai có quyền khai thác, sử dụng tác phẩm đóng vai trò quan trọng. Thông thường, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng về phạm vi quyền khai thác tác phẩm của bên đặt hàng (bên thuê sáng tạo). Nếu các bên không có thỏa thuận thì tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng sáng tạo tác phẩm với tác giá là chủ sở hữu quyền tác giả, sẽ có quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản theo quy định của luật.

(iii) Người được thừa kế quyền tác giả:

Khi chủ sở hữu quyền tác giả chết mà tác phẩm vẫn đang trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả, thì người thừa kế quyền tác giả trở thành chủ sở hữu quyền tác giả được để lại thừa kế. Người thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế có thể là cả nhân, tổ chức, được thừa kế di sản thừa kế là quyền tác giả theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu có nhiều người thừa kế là chủ sở hữu quyền tác giả mà người để lại thừa kế không phân định phần quyền của mỗi người thì họ được xác định là đồng chủ sở hữu chung hợp nhất về quyền tác giả; nếu người để lại thừa kế đã xác định cụ thể về phần quyền mà mỗi thừa kế được hường thi mỗi người là chủ sở hữu quyền tác giả đối với riêng phần quyền đó. Người thừa kế quyền tác giả là chủ sở hữu quyền công bố và các quyền tài sản thuộc quyền tác giả đối với tác phẩm được thừa kế.

(iv) Người được chuyển giao quyền:

Cá nhân, tổ chức được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản thuộc quyền tác giả và quyền công bố tác phẩm thông qua hợp đồng là chủ sở hữu các quyền được chuyển giao. Theo quy định của pháp luật dân sự, việc chuyển giao quyền sở hữu có thể thông qua các hợp đồng như mua bản, trao đổi, tặng cho, cho vay. Điều 45 Luật sở hữu trí tuệ có quy định về hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả.

(v) Nhà nước:

Đổi với các tác phẩm khuyết danh, tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết không còn người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản, tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước thì Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm đó.

(vi)  Công chúng:

Các kết quả sáng tạo trí tuệ thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội cũng như có giá trị to lớn đối với nền công nghiệp văn hoá, giải tri. Vì vậy, pháp luật quyền tác giả trao cho chủ thể sáng tạo và đầu tư độc quyền khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm trong một thời hạn để bù đắp công sức sáng tạo và đầu tư, tặng thưởng xứng đáng cho những nỗ lực sáng tạo của họ nhằm tạo động lực khuyến khích sáng tạo. Khi thời hạn bảo hộ kết thúc, tác phẩm trở thành tài sản công cộng và công chúng trở thành "người chủ" tác phẩm, có quyền sử dụng tài sản chung mà không phải xin phép, không phải trả tiền nhưng phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả.

Bên cạnh những tác phẩm thuộc về công chúng do hết thời hạn bảo hộ, một số loại tác phẩm do tính chất, vai trò của nó đối với xã hội, lợi ích công cộng, đồi hỏi công chúng phải được tiếp cận hay sử dụng, nên nó không thuộc phạm vi được bảo hộ quyền tác giả, như: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, quy trình, khái niệm.... Những đối tượng này công chúng có quyền tiếp cận, sử dụng mà không phải xin phép, không phải trả nhuận bút, thù lao. Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật dân sự' tác giá đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả có thể tự chấm dứt quyền sở hữu quyền tác giả của mình bằng việc tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc mình từ bỏ quyền sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Điều này về bản chất là việc tác giả từ chối hưởng các lợi ích vật chất từ tác phẩm. Trong trường hợp này, tác phẩm cũng được coi là thuộc về công chúng và công chúng được sử dụng tác phẩm mã không phải xin phép, không phải trả nhuận bút, thù lao.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ của Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Chủ sở hữu quyền tác giả theo luật sở hữu trí tuệ được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Chủ sở hữu quyền tác giả theo luật sở hữu trí tuệ có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Chủ sở hữu quyền tác giả theo luật sở hữu trí tuệ

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.17277 sec| 970.906 kb