Điều kiện để nhận nuôi con nuôi và hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi

05/10/2024
Khi nhận nuôi con nuôi sẽ hình thành quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con. Vậy cụ thể cần những điều kiện gì để tiến hành nhận nuôi con nuôi, và hệ quả pháp lí phát sinh khi nhận nuôi con nuôi là gì?

1- Điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp

Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, các điều kiện để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lí bao gồm:

a. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi là người dưới 16 tuổi. So với quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì độ tuổi của người được nhận làm con nuôi đã nâng lên cho phù hợp hơn với độ tuổi của trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và Luật Trẻ em năm 2016 quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Trẻ em là đối tượng cần được quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng thông qua việc nuôi con nuôi khi các em không có gia đình nuôi dưỡng.

Về nguyên tắc, người được nhận làm con nuôi là trẻ em. Tuy nhiên trong một số trường hợp, để đảm bảo duy trì các mối liên hệ huyết thống trong gia đình, Khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy định: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng được nhận làm con nuôi trong các trường hợp sau:

- Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

- Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

Người được nhận làm con nuôi chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. Pháp luật không thừa nhận việc nhận nuôi con nuôi chung giữa hai người không có quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong trường hợp người nhận nuôi con nuôi đang có vợ hoặc có chồng thi việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý, thống nhất của cả hai vợ chồng và đứa trẻ được nhận nuôi là con nuôi chung của cả hai vợ chồng. Điều này là hợp lí, phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi là thiết lập cho đứa trẻ một gia đình đầy đủ, trọn vẹn và thuận lợi nhất cho sự phát triển thể chất, tinh thần, nhân cách của trẻ em được nhận nuôi. Pháp luật khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt làm con nuôi.

Ngoài quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi, pháp luật không quy định cụ thể về hoàn cảnh gia đình của trẻ em cần được giải quyết cho làm con nuôi. Có thế thấy rằng, việc cho trẻ em làm con nuôi người khác là cần thiết và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em nếu trẻ em không thể được nuôi dưỡng trong gia đình. vì vậy, việc quy định rõ hoàn cảnh gia đình của trẻ em cần tìm gia đình thay thế phải được coi là một điều kiện cần thiết đối với người được nhận nuôi để tránh lợi dụng cho trẻ em làm con nuôi nhằm những mục đích vụ lợi khác.

b.  Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi

Để thiết lập môi trường gia đình an toàn, đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ đối với trẻ em được nhận làm con nuôi trong gia đình thay thế, việc quy định các điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi là cần thiết trên cơ sở vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, người nhận nuôi con nuôi phải có đủ các điều kiện sau:

- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người theo quy định của pháp luật dân sự đạt độ tuổi nhất định, tức là từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Với tư cách là cha, mẹ nuôi của trẻ em, người nhận nuôi con nuôi phải có đủ năng lực hành vi dân sự thì mới đảm bảo được việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, chịu trách nhiệm về những hành vi của con nuôi cũng như có đủ khả năng để gánh chịu những trách nhiệm pháp lí trong việc chăm sóc, giáo dục con nuôi.

- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Đây là quy định về độ tuổi chênh lệch tối thiểu giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi. Quy định về độ tuổi chênh lệch giữa người nhận nuôi và con nuôi là cần thiết, nhằm đảm bảo sự tương thích trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con về mặt sinh học, phù hợp với phong tục, tập quán, đạo đức, truyền thống của gia đình Việt Nam, đồng thời đảm bảo tác động giáo dục con nuôi của cha mẹ nuôi.

- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Đây là những điều kiện tối thiểu cơ bản, cần thiết nhất để đảm bảo cuộc sống ổn định của người con nuôi trong gia đình cha mẹ nuôi.

- Có tư cách đạo đức tốt. Tư cách đạo đức của người nhận nuôi con nuôi là yếu tố quan trọng trong việc tạo dựng môi trường gia đình an toàn, lành mạnh, đảm bảo sự phát triển tốt về thể chất, nhân cách của con nuôi.

Trong trường hợp vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì cả hai vợ chồng đều phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện của người nhận nuôi nêu trên.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, trong trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi thì không bắt buộc phải tuân thủ đầy đủ quy định về Khoản g cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi cũng như các điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở của người nhận nuôi. Quy định này có tính chất lynh hoạt, mềm dẻo nhằm tạo điều kiện, cơ hội tối đa cho trẻ em làm con nuôi được sống trong môi trường gia đình gốc của mình. Tuy nhiên quy định này tỏ ra chưa chặt chẽ và chưa phù hợp với thực tế cuộc sống. Trong những trường hợp này, nếu người nhận nuôi con nuôi chỉ hơn người được nhận làm con nuôi một vài tuổi (ví dụ, cô ruột vừa đủ 18 tuổi nhận cháu dưới 18 tuổi làm con nuôi) thì khả năng thực hiện quyền làm cha mẹ đối với con nuôi là không khả thi, không phù hợp với thực tế cuộc sống. vì vậy, theo chúng tôi, quy định này cần sửa đổi cho phù hợp hơn.

Bên cạnh việc quy định các điều kiện của người nhận nuôi, Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định những người không đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi. Đó là những người sau:

- Người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

- Người đang chấp hành hình phạt tù;

- Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Để đảm bảo các điều kiện trên, trong hồ sơ của người nhận con nuôi phải có Phiếu lí lịch tư pháp; Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận nuôi do ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó thường trú cấp.

c. Điều kiện về ý chỉ của các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi

Việc nuôi con nuôi luôn liên quan đến các bên chủ thể là người có quyền cho trẻ em làm con nuôi, người nhận nuôi và chính bản thân trẻ em được nhận nuôi khi đạt độ tuổi nhất định. Pháp luật đòi hỏi những người này phải thể hiện ý chí một cách công khai, minh bạch trong việc cho nhận con nuôi tùy theo khả năng nhận thức và năng lực hành vi của mỗi người.

- Ý chí của cha mẹ đẻ, người giám hộ:

Cha, mẹ đẻ có quyền thể hiện ý chí độc lập, tự nguyện trong việc cho con làm con nuôi người khác. Ý chí của cha mẹ đẻ về việc cho con làm con nuôi phải trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị tác động, dụ dỗ, mua chuộc, lừa dối, cưỡng ép, không kèm theo bất cứ yêu cầu trả tiền hay bồi thường nào. Trong trường hợp cha mẹ đẻ đều còn sống và có năng lực hành vi dân sự thì việc cho con làm con nuôi phải có sự đồng ý của cả cha đẻ, mẹ đẻ. Nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải có sự đồng ý của người còn lại. Nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải có sự đồng ý của người giám hộ của trẻ.

Khoản 4 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi còn quy định: “Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau Khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày”. Đây là một quy định mới trong pháp luật về nuôi con nuôi của nước ta. Quy định này là một nội dung tiếp cận Công ước La Hay 1993, nhằm đảm bảo cho cha mẹ đẻ của trẻ có thời gian cân nhắc, suy nghĩ kĩ trước khi cho trẻ làm con nuôi người khác. Thời gian tối thiểu là 15 ngày sau khi đứa trẻ được sinh ra, được sống trong sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha đẻ, mẹ đẻ, qua đó tình cảm giữa cha mẹ đẻ và con được thiết lập sẽ tạo cơ hội cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong gia đình gốc mà không bị cho đi làm con nuôi.

Ý chí của cha mẹ đẻ trong việc cho con làm con nuôi còn the hiện ở chỗ cha mẹ đẻ có quyền rút lại sự đồng ý cho trẻ làm con nuôi trong thời hạn 15 ngày (đối với việc nuôi con nuôi trong nước) hoặc 30 ngày (đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài) kế từ ngày được lấy ý kiến.

- Ý chí của người nhận nuôi: người nhận nuôi con nuôi thể hiện ý chí mong muốn nhận trẻ em làm con nuôi thông qua đơn xin nhận con nuôi. Trong đơn xin nhận con nuôi, người nhận nuôi có thế xin đích danh trẻ em muốn nhận nuôi hoặc nêu những đặc điếm về trẻ em muốn nhận nuôi. Việc nhận nuôi con nuôi phải nhằm mục đích thiết lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững với trẻ.

- Ý chí của trẻ em được nhận nuôi: Sự thể hiện ý chí của trẻ em được nhận nuôi chỉ đặt ra khi trẻ em đạt đến một độ tuổi nhất định, có đủ khả năng nhận thức và quyết định các vấn đề có liên quan trực tiếp đến bản thân mình. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi, trong trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Các nước có thể quy định khác nhau vê độ tuổi này. Trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam hiện nay thì độ tuổi này là phù hợp. Quy định này nhằm đảm bảo quyền bày tỏ ý kiến, quyền tham gia của trẻ em được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Luật Trẻ em.

d. Đăng kí việc nuôi con nuôi

Việc nhận nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ được nhận nuôi và cả người nhận nuôi vì xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên, hình thành một gia đình cho đứa trẻ. Do đó sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc nuôi con nuôi là bắt buộc để việc nuôi con nuôi có hiệu lực pháp lí.

Theo quy định tại Điều 22 Luật Nuôi con nuôi, khi xét thấy người nhận nuôi con nuôi và người được nhận nuôi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức đăng kí nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người có liên quan trong việc cho, nhận con nuôi.

Trong trường hợp ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng kí việc nuôi con nuôi thì phải trả lời bằng văn bản cho các bên đương sự có liên quan và nêu rõ lí do từ chối.

Đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, việc thẩm định hồ sơ của người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi do Cục Con nuôi - Bộ Tư pháp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 34 Luật Nuôi con nuôi và Điều 18 Nghị định số 19/20ly/NĐ-CP. Việc kiểm tra, xác minh điều kiện của trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài thuộc trách nhiệm của Sở Tư pháp theo quy định tại Điều 33 Luật Nuôi con nuôi và Điều 16 Nghị định số 19/20ly/NĐ-CP. Nếu xét thấy các bên đáp ứng đầy đủ các điều kiện của người nhận nuôi và người được nhận nuôi theo quy định của pháp luật thì Sở Tư pháp trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.

Trên cơ sở quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp thông báo cho người nhận nuôi đến Việt Nam để nhận con nuôi. Khi người nhận con nuôi có mặt tại Việt Nam, Sở Tư pháp tiến hành đăng kí việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng kí hộ tịch và tổ chức lễ giao nhận con nuôi.

Đối với trường hợp nhận nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với công dân của nước láng giềng cùng thường trú ở khu vực biên giới thì thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 21 và Điều 22 Nghị định số 19/20ly/NĐ-CP. Theo đó, người nước ngoài thường trú ở khu vực biên giới nước láng giềng với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi phải làm hồ sơ xin nhận con nuôi nộp cho ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của trẻ em được nhận nuôi, ủy ban nhân dân cấp xã kiếm tra hồ sơ, lấy ý kiến của những người có liên quan và có văn bản gửi Sở Tư pháp kèm theo 01 bộ hồ sơ của người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi để xin ý kiến. Sau khi có sự đồng ý của Sở Tư pháp, ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành đăng kí việc nuôi con nuôi và giao nhận con nuôi theo thủ tục chung.

Trong trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước đó làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi và các điều kiện của nguời nhận nuôi theo quy định của pháp luật nuớc láng giềng. Hồ sơ của nguời nhận nuôi đuợc gửi cho Sở Tu pháp để kiểm tra và xác nhận nếu nguời đó đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi. Sau khi đăng kí nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền của nuớc láng giềng, nguời nhận nuôi con nuôi phải làm thủ tục ghi chú việc nuôi con nuôi tại ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của người đó.

Như vậy, việc nuôi con nuôi chỉ có giá trị pháp lí khi được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và con nuôi phát sinh kể từ thời điểm đăng kí.

Theo quy định tại Điều 50 Luật Nuôi con nuôi, trong trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau phát sinh trước ngày 01/01/20ly mà chưa đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền thì được đăng kí trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực (ngày 01/01/20ly), nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:

- Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;

- Đển thời điểm Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;

- Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.

Những trường hợp này có thể hiểu là việc nuôi con nuôi thực tế. Sau khi được đăng kí, quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi có giá trị pháp lí kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. Việc quy định Khoản g thời gian để các bên đăng kí việc nuôi con nuôi thực tế là phù hợp với bản chất, mục đích của việc nuôi con nuôi, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đã phát sinh và thực hiện trên thực tế. Sau khi hết thời hạn 05 năm mà các bên đương sự không thực hiện việc đăng kí nuôi con nuôi thì kill có tranh chấp phát sinh, quan hệ giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi không được pháp luật công nhận là quan hệ cha mẹ và con.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest

2- Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi

Việc nuôi con được đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền và theo thủ tục pháp luật quy định làm phát sinh hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi là các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi phát sinh trên cơ sở đăng kí việc nuôi con nuôi. Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi bao gồm quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa con nuôi với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi, giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi.

a- Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi

Kể từ ngày đăng kí việc nuôi con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ. Các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con được quy định từ Điều 68 đến Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, cha mẹ nuôi có quyền và nghĩa vụ yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi; đại diện hoặc giám hộ cho con nuôi chưa thành niên, con nuôi đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự; quản lí tài sản của con nuôi; bồi thường thiệt hại do con nuôi chưa thành niên gây ra... Con nuôi có quyền và nghĩa vụ đối với cha mẹ nuôi như con đẻ, như yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ nuôi; giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình cha mẹ nuôi; chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ nuôi, đặc biệt khi cha mẹ nuôi già yếu, ốm đau, bệnh tật, khuyết tật... Cha mẹ nuôi và con nuôi được thừa kế tài sản của nhau theo pháp luật và là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau khi một bên chết.

Một vấn đề đặt ra là khi con của thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng được nhận làm con nuôi người khác có được hưởng các quyền gắn liền với nhân thân của con thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng nữa hay không thi Luật Nuôi con nuôi chưa có quy định rõ. Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định khá rõ ràng về vấn đề này tại Điều 74: “Con liệt sĩ, con thương b1nh, con của người có công với cách mạng được người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ, con thương b1nh, con của người có công với cách mạng”. Theo quan điểm của tác giả, cần có quy định rõ ràng về việc giữ nguyên các quyền, lợi ích mà người con nuôi đó được hưởng từ cha mẹ đẻ để đảm bảo thực hiện triệt để, thống nhất chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với những người có công đã hy sinh vì đất nước.

Cha mẹ nuôi có quyền yêu cầu thay đổi họ của con nuôi theo họ của cha mẹ nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuối trở lên phải được sự đồng ý của người đó. Việc thay đổi họ tên của con nuôi theo họ tên của cha mẹ nuôi nhằm tạo điều kiện cho trẻ em được nhận nuôi hòa nhập đầy đủ và hoàn toàn vào gia đình cha mẹ nuôi như con đẻ của cha mẹ nuôi. Điều đó tránh cho trẻ được nhận nuôi sự mặc cảm và xóa bỏ sự phân biệt đối xử. ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng kí khai sinh cho trẻ em đăng kí khai sinh lại cho con nuôi và thu hồi Giấy khai sinh cũ, trong sổ đăng kí khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi (Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 19/2011/ND-CP).

Dân tộc của con nuôi được xác định theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Khoản 3 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định: “Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi”. Khoản 2 Điều 29 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rõ hơn về vấn đề này: “trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó”. Như vậy, chỉ trong trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ thì dân tộc của con nuôi mới được xác định theo dân tộc của cha nuôi hoặc của mẹ nuôi theo thỏa thuận giữa cha nuôi, mẹ nuôi hoặc theo tập quán. Đối với trẻ em được nhận nuôi mà đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ và việc cho trẻ làm con nuôi của người dân tộc khác không làm thay đổi dân tộc của trẻ em đó.

b- Quyền và nghĩa vụ giữa con nuôi vói các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi, kể từ ngày giao nhận con nuôi, “giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Đây là một quy định mới về quan hệ giữa con nuôi với những người họ hàng gần gũi của cha mẹ nuôi nhằm mục đích tạo ra một gia đình đầy đủ, trọn vẹn cho con nuôi như gia đình huyết thống. Các mối quan hệ gần gũi nhất thường là quan hệ giữa con nuôi với cha mẹ đẻ của cha mẹ nuôi, giữa con nuôi với các con đẻ của cha mẹ nuôi, giữa con nuôi với các anh, chị, em ruột của cha nuôi, mẹ nuôi.

Theo quy định trên, có thể hiểu giữa cha mẹ đẻ của cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi là quan hệ giữa ông, bà với cháu, do đó giữa hai bên có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của ông bà và cháu đối với nhau theo quy định tại Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, ông bà có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu; trong trường hợp cháu chưa thành niên không có người nuôi dưỡng thì ông bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; trong trường hợp ông bà không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dượng. Giữa ông bà và cháu có quyền và nghĩa vụ giám hộ cho nhau theo quy định của Bộ luật Dân sự, có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo quy định tại các Điều 107 và Điều ly3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuy nhiên con nuôi của con đẻ có thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông, bà khi ông, bà chết theo điểm b Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 và có được thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015 hay không thì chưa có quy định rõ nên có nhiều quan điểm khác nhau.

Giữa con nuôi với các con đẻ của cha mẹ nuôi phát sinh quan hệ giữa anh, chị, em với nhau nên giữa họ cũng có các quyền, nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho nhau khi cha mẹ không có điều kiện nuôi dưỡng, cấp dưỡng.

Giữa anh, chị, em ruột của cha nuôi, mẹ nuôi với người con nuôi có các quyền và nghĩa vụ giữa cô, dì, chú, bác, cậu và cháu theo quy định của pháp luật. Do đó, giữa họ có quyền, nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau, có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho nhau theo quy định tại Điều 106, Điều ly4 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuy nhiên, với nội dung quy định tại Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi như trên trong thực tế có thể dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất, làm giảm sút ý nghĩa của việc nuôi con nuôi và chưa có cơ sở pháp lí rõ ràng để giải quyết khi phát sinh tranh chấp. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng giữa con nuôi với các thành viên khác trong gia đình cha nuôi, mẹ nuôi chỉ có quyền và nghĩa vụ đối với nhau khi họ cùng sống chung theo quy định tại Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, cần có quy định cụ thể hơn về vấn đề này.

c- Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi

Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định: “Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kê từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sốc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, b.ồ1 thường thiệt hại, quản ly, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi”. Đây là một quy định mới điều chỉnh về mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đã cho làm con nuôi. Theo quy định này, về nguyên tắc, việc cha mẹ đẻ quyết định cho con làm con nuôi trên cơ sở suy nghĩ, cân nhắc kĩ càng, chín chắn, phù hợp với sự tự nguyện thật sự của bản thân sẽ làm chuyển giao trách nhiệm làm cha mẹ đối với trẻ từ cha mẹ đẻ sang cha mẹ nuôi, kể từ ngày giao nhận con nuôi. Do đó, nếu giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa thuận gì thì một số quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đối với con đã cho làm con nuôi sẽ chấm dứt. Việc nuôi con nuôi được công nhận sẽ làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ gắn liền với trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của cha mẹ đẻ như quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật cho con, bồi thường thiệt hại, quản lí, định đoạt tài sản riêng của con.

Tuy nhiên, quyền thừa kế giữa cha mẹ đẻ và con đã cho làm con nuôi không bị chấm dứt theo quy định tại Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi. Con đã cho làm con nuôi vẫn được thừa kế tài sản của cha mẹ đẻ và ngược lại, cha mẹ đẻ cũng được thừa kế tài sản của con đã cho làm con nuôi người khác.

Trong trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đối với con đã cho làm con nuôi sẽ tùy theo thỏa thuận giữa các bên. Cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thể thỏa thuận về việc chấm dứt một số hoặc toàn bộ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đối với con đã cho làm con nuôi, kể cả quyền thừa kế hoặc cũng có thể thỏa thuận không chấm dứt bất cứ quyền, nghĩa vụ nào của cha mẹ đẻ đối với con. Thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi phải tuân thủ quy định tại Khoản 2 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi, Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 19/20ly/NĐ-CP và phải lập thành văn bản. Văn bản thỏa thuận này là cơ sở pháp lí để ủy ban nhân dân cấp xã nơi cha mẹ nuôi thường trú kiểm tra, giám sát, theo dõi tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi, đồng thời là cơ sở pháp lí để giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.


Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Điều kiện để nhận nuôi con nuôi và hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Điều kiện để nhận nuôi con nuôi và hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Điều kiện để nhận nuôi con nuôi và hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
6.26305 sec| 1048.781 kb