Đối tượng tác động của tội phạm

05/11/2024
Phạm Huyền My
Phạm Huyền My
Hành vi phạm tội xâm hại khách thể của tội phạm qua sự tác động đến bộ phận cụ thể của quan hệ xã hội. Đó có thể là chủ thể của quan hệ xã hội, nội dung của quan hệ xã hội hoặc đối tượng của quan hệ xã hội. Bộ phận của quan hệ xã hội bị tác động như vậy được gọi là đối tượng tác động của tội phạm.

1- Khái niệm đối tượng tác động của tội phạm

"Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động và qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ". 

Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm dù ở hình thức cụ thể nào cũng luôn luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động là bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội.

Các bộ phận của khách thể của tội phạm có thể bị tác động là:

  • Chủ thể của quan hệ xã hội;

  • Nội dung của quan hệ xã hội (là hoạt động của các chú thể khi tham gia vào quan hệ xã hội) hoặc

  • Đối tượng của quan hệ xã hội (là sự vật hoặc lợi ích mà qua đó quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại).

Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động cụ thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại cho quan hệ xã hội. Sự làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động trong chừng mực nhất định cũng có thể được gọi là sự xâm phạm đối tượng tác động như thực tế hiện nay vẫn gọi tên một số nhóm tội theo đối tượng tác động.

Ví dụ: Các tội xâm phạm tài sản; các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ...

Cách gọi này tuy chưa thể hiện được bản chất của tội phạm nhưng có thể chấp nhận được nếu hiểu sự xâm phạm đối tượng tác động luôn luôn có nghĩa là sự xâm phạm bộ phận của quan hệ xã hội và qua đó xâm hại quan hệ xã hội. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ các quan hệ xã hội thông qua việc bảo đảm tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội. Sự bảo vệ đối tượng tác động cụ thể luôn luôn có ý nghĩa là bảo vệ các bộ phận của quan hệ xã hội và qua đó để bảo vệ quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

2- Ba loại đối tượng tác động của tội phạm

[a] Con người - Chủ thể của quan hệ xã hội

Con người với ý nghĩa vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể là chủ thể của nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong các quan hệ xã hội có quan hệ xã hội chỉ có thể bị gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của con người là chủ thể của quan hệ xã hội đó. Quan hệ nhân thân là quan hệ xã hội thuộc loại này. Các tội phạm được quy định trong Chương XIV BLHS đều có đối tượng tác động là con người. Những hành vi phạm tội của nhóm tội phạm này có thể là hành vi tước đoạt tính mạng, hành vi gây tổn hại cho sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người.

[b] Đối tượng vật chất - Khách thể của quan hệ xã hội

Trong các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ có quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng vật chất như quan hệ sở hữu... Các hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản một cách trái pháp luật đều là những hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Sự làm biến đổi tình trạng này có thể do những loại hành vi khác nhau gây ra như hành vi chiếm đoạt, hành vi chiếm giữ, hành vi sử dụng trái phép, hành vi huỷ hoại hay làm hư hỏng...

[c] Hoạt động bình thường của chủ thể - Nội dung của quan hệ xã hội

Luật hình sự bảo vệ quan hệ xã hội không chỉ qua việc đảm bảo tình trạng bình thường cho con người là chủ thể của quan hệ xã hội, cho đối tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội mà ở những quan hệ xã hội nhất định, còn qua việc bảo đảm hoạt động bình thường của chủ thể với ý nghĩa là nội dung của quan hệ xã hội. Trong những trường hợp đó, hoạt động bình thường của chủ thể được coi là đối tượng tác động của tội phạm. Sự làm biến đối tình trạng của đối tượng tác động ở đây là sự cản trở hoạt động bình thường của chủ thể hoặc dưới hình thức làm biến dạng xử sự của người khác hoặc dưới hình thức tự làm biến dạng xử sự của chính mình.

Ví dụ: Hành vi đưa hối lộ (Điều 364 BLHS) là hành vì nhằm làm biến dạng xử sự của người có chức vụ, quyền hạn; hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 332 BLHS) là hành vì tự làm biến dạng xử sự của chính mình.

Việc xâm hại quan hệ xã hội bằng cách tác động đến đối tượng tác động của tội phạm không có nghĩa là đối tượng tác động của tội phạm cũng luôn luôn bị hư hại cũng với các quan hệ xã hội. Trong nhiều trường hợp, đối tượng tác động của tôi phạm không rơi vào tình trạng xấu hơn so với trước khi tội phạm xảy ra.

Ví dụ: Người trộm cắp tài sản thường không gây hư hỏng cho tài sản trộm cắp là đối tượng tác động của tội phạm mà còn có thể có biện pháp bảo vệ giá trị vật chất của tài sản đã chiếm đoạt...

Khi nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm cần phân biệt đối tượng tác động của tội phạm với công cụ, phương tiện phạm tội. Công cụ, phương tiện phạm tội là đối tượng được người phạm tội sử dụng để tác động đến đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm.

Với vai trò là bộ phận của khách thể của tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm có thể được phản ánh là dấu hiệu trong CTTP.

Ví dụ: Điều 303 Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối tượng tác động của tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia phải là công trình, cơ sở hoặc phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, công trình điện, dẫn chất đốt, công trình thuỷ lợi hoặc công trình quan trọng khác về quốc phòng, kinh tế, khoa học - kĩ thuật, văn hoá và xã hội.

Đối với những trường hợp này, việc xác định đối tượng tác động của tội phạm là bắt buộc khi định tội.

Ở một số tội phạm, đối tượng tác động của tội phạm có thể được phản ánh trong CTTP tăng nặng là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. Ví dụ. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài sản.

Đối với những trường hợp này, việc xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt tăng nặng. 

Trong những trường hợp khác, việc xác định đối tượng tác động của tội phạm có thể có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và và do vậy cũng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Đối tượng tác động của tội phạm được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Đối tượng tác động của tội phạm có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Đối tượng tác động của tội phạm

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.16616 sec| 966.5 kb