Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
"Công lý là thứ nhất thời và cuối cùng cũng sẽ đi đến kết thúc; nhưng lương tâm là vĩnh cửu và sẽ không bao giờ lụi tàn".
Martin Luther King, 1929 - 1968, Mục sư Baptist, nhà hoạt động nhân quyền (Mỹ)
Bà Nguyễn Thị Thành vào năm 2021 đã khiếu nại UBND huyện Nghi Lộc (tỉnh Nghệ An) đã cấp Giấy chứng nhận đất đối với thửa đất của gia đình bà cho hộ ông Nguyễn Đình Hải trái quy định.
Chủ tịch UBND huyện Nghi Lộc đã giải quyết khiếu nại bằng Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND ngày 22/06/2021, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Văn bản số 2383/UBND-TD ngày 07/04/2022. Không đồng ý với các quyết định văn bản nêu trên, bà Nguyễn Thị Thành khởi kiện vụ án hành chính.
Kính thưa: Hội đồng xét xử - Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, thưa Vị đại diện Viện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hành chính
Tôi là: Phạm Ngọc Minh - Luật sư của Công ty Luật TNHH Everest - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Tôi tham gia tố tụng vụ án với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Thành - người khởi kiện trong vụ án hành chính "yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai", do Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử theo thủ tục sơ thẩm (Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2024/QDXX-ST ngày 05/08/2024).
Trước đó vào năm 2020, bà Nguyễn Thị Thành (cư trú tại phường Phú Mỹ, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh) phát hiện ra: [1] thửa đất 120 m2 có vị trí tại cầu ông Đục giáp cầu ông Chèn, bám đường Quán Hành - Chợ Sơn (nay là Quốc lộ 48E), đã bị đổi sang 02 (hai) lô đất tại xóm 3 (nay là xóm Trường Lân), xã Nghi Trường; [2] UBND huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đã cấp Giấy chứng nhận đất đối với thửa đất diện tích 319,0 m2, số thửa 717, tờ bản đồ số 1, xóm Trường Lân (xóm 3 cũ), xã Nghi Trường là một phần thửa đất của gia đình bà Nguyễn Thị Thành cho hộ ông Nguyễn Đình Hải trái quy định pháp luật.
Sau khi bà Nguyễn Thị Thành đã có đơn khiếu nại (lần đầu) tới UBND huyện Nghị Lộc. Chủ tịch UBND huyện Nghi Lộc đã giải quyết khiếu nại bằng Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND ngày 22/06/2021, kết luận: "Bà Nguyễn Thị Thành khiếu nại UBND huyện Nghi Lộc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 717, tờ bản đồ sô 01, tại xóm Trường Lân (xóm 3 cũ), xã Nghi Trường là một phần thửa đất của gia đình bà cho hộ ông Nguyễn Đình Hải trái quy định pháp luật là đúng". Tuy nhiên, trong Phần kết quả kiểm tra xác minh của Đoàn thanh tra có nhiều tình tiết không chính xác.
Bà Nguyễn Thị Thành tiếp tục khiếu nại lần thứ hai đến Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, nhưng chỉ được giải quyết bằng Văn bản số 2383/UBND-TD ngày 07/04/2022 của UBND tỉnh Nghệ An "về việc xử lý sau kiểm tra, rà soát đơn của công dân".
Do đó, bà Nguyễn Thị Thành khởi kiện vụ án hành chính, yêu cầu hủy một phần Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND và Văn bản số 2383/UBND-TD, cụ thể yêu cầu:
(1) Huỷ một phần Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu ngày 22/06/2021 của UBND huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, cụ thể huỷ các kết luận sau:
"Năm 1999, UBND xã Nghi Trường đã đổi cho gia đình ông Viên thửa đất tại cồn ông Đục giáp cầu ông Chèn (bám quốc lộ 48E) sang 02 suất đất tại xóm 3, xã Nghi Trường (bám đường Đức Thiết) có diện tích 500 m2 (trong đó đất ở 400 m2), chiều rộng 25 m, chiều sâu 20 m; Thửa đất cách tim đường liên xã (đường Đức Thiết) 11 m".
"Năm 2004, UBND xã giao 2 lô đất, có diện tích 500 m2 (đất ở 400 m2) tại xóm 3, xã Nghi Trường của ông Nguyễn Đình Viên (được đổi từ đất mua tại vị trí cồn ông Đục cầu ông Chèn) cho ông Nguyễn Đình Hải là không đúng đối tượng được giao đất sử dụng".
"Năm 2007, bà Nguyễn Thị Thành chuyển nhượng một phần diện tích đất cho ông Nguyễn Thanh Cương với chiều dài 10m bám mặt đường Đức Thiết của lô đất được cấp, tương đương 200 m2. Diện tích theo hiện trạng sử dụng của ông Cương hiện nay là 339 m2, chiều rộng 9,98 m".
(2) Hủy văn bản số 2383/UBND-TD về việc xử lý sau kiểm tra, rà soát đơn của công dân ngày 07/04/2022 của UBND tỉnh Nghệ An.
Các chứng cứ và luận cứ do người khởi kiện đưa cho yêu cầu khởi kiện, tôi trình bày ở phần dưới đây.
Xem thêm: Các kỹ năng của Luật sư tại phiên tòa hành chính sơ thẩm
Lời lời trình bày và tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện cung cấp thể hiện:
Năm 1994, ông Nguyễn Đình Viên và bà Nguyễn Thị Thành (người khởi kiện) được UBND xã Nghi Trường (huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) bán thửa đất tại vị trí cầu ông Đục giáp cầu ông Chèn, bám đường Quán Hành - Chợ Sơn (nay là Quốc lộ 48E), diện tích khoảng 120 m2, giá 5.000.000 đồng, kèm theo là Phiếu thu ngày 30/10/1994 - 4.000.000 đồng và Phiếu thu ngày 30/03/1995 - 1.000.000 đồng (sau đây gọi tắt là ‘thửa đất tại cồn ông Đục giáp cầu ông Chèn’).
Năm 2000, theo tiêu chuẩn thương binh, ông Nguyễn Đình Viên tiếp tục được UBND xã Nghi Trường bán thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc (nay là xóm Trường Lân) với tổng diện tích khoảng 1.000 m2, có chiều rộng là 25 m bám mặt đường Đức Thiết (nay là xóm Trường Lân, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc). Sau đây gọi tắt là ‘thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường’.
Năm 2004, gia đình người khởi kiện đã xây dựng căn nhà có diện tích khoảng 70 m2, làm tường bao quanh thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường (nay là xóm Trường Lân, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc) để sinh sống. Việc xây dựng này có hàng xóm, láng giềng chứng kiến.
Vì ở xa, tin tưởng em ruột của mình là ông Nguyễn Đình Yên (sinh năm 1956, trú tại: xóm Trường Lân (xóm 3 cũ), xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), ông Nguyễn Đình Viên đã giao lại cho ông Nguyễn Đình Yên để giữ hộ toàn bộ hồ sơ, giấy tờ và các chứng từ gốc liên quan đến hai thửa đất (thửa đất tại Quốc lộ 48E và thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường), nhờ làm thủ tục cấp sổ đỏ giúp cho mình.
Năm 2006, do vết thương cũ tái phát, ông Nguyễn Đình Viên lâm bệnh nặng và phải chữa trị tại Hà Nội, không thể về quê để tiếp tục giải quyết hai thửa đất (nêu trên). Do đó vào ngày 20/02/2006, ông Nguyễn Đình Viên với sự chứng kiến của vợ là bà Nguyễn Thị Thành (người khởi kiện) và các con: Nguyễn Thị Hồng Tâm, Nguyễn Hái Liên, Nguyễn Trường Long đã viết Bản di chúc và uỷ quyền : "Tôi vừa xây xong ngôi nhà, ý định vợ chồng tôi sẽ về quê ở dưỡng già... nhưng sống được bao nhiêu thì tôi không lường trước được...", "Vợ chồng tôi cùng các con đồng ý bàn giao nhà cửa đất đai, tài sản cho con trai là Nguyễn Trường Long toàn quyền sử dụng và bảo quản đất và tài sản chung của mình".
Ngày 22/03/2006, ông Nguyễn Đình Viên chết. Người khởi kiện liên hệ và yêu cầu ông Nguyễn Đình Yên trả lại toàn bộ hồ sơ, giấy tờ và chứng từ của hai thửa đất nêu trên cho gia đình tôi, nhưng đều bị từ chối, lẩn tránh.
Ngày 11/04/2007, gia đình người khởi kiện đã chuyển nhượng một phần thửa đất ở xóm 3, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc cho gia đình ông Nguyễn Thanh Cương và bà Nguyễn Thị Ngà, diện tích chuyển nhượng khoảng 400 m2, chiều rộng bám mặt đường Đức Thiết là 10 m, chiều sâu là 40 m, bao gồm nhà đã xây dựng trên thửa đất, diện tích khoảng 70 m2, giá 130 triệu đồng.
Khoảng năm 2020, gia đình người khởi kiện về quê tìm hiểu và xác minh hồ sơ, giấy tờ làm thủ tục cấp sổ đỏ hai thửa đất cho mình, thì được biết:
(1) Thửa đất 120 m2 có vị trí tại cầu ông Đục giáp cầu ông Chèn, bám đường Quán Hành - Chợ Sơn (nay là Quốc lộ 48E), đã bị đổi sang 02 (hai) lô đất tại xóm 3 (nay là xóm Trường Lân), xã Nghi Trường;
(2) Thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường đã được UBND huyện Nghi Lộc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Đình Hải và chị Phan Thị Quỳnh Vân (con trai, con dâu của ông Nguyễn Đình Yên), diện tích 319 m2, thửa đất số 717, tờ bản đồ số 1, địa chỉ xóm 3, xã Nghi Trường.
Do đó, người khởi kiện đã gửi nhiều đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng 02 (hai) thửa đất nêu trên trái quy định của pháp luật, có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đến cơ quan có thẩm quyền.
- Quá trình khiếu nại, tố cáo, người khởi kiện thu thập các tài liệu:
(1) Phiếu thu không số của ông Nguyễn Đình Viên ngày 30/10/1994 "thu lệ phí cấp đất ở Cầu ô Đục giáp với Cầu ông Chèn X3 (các phiếu tạm thu)", số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) ngày 30/10/1994;
(2) Phiếu thu không số của ông Nguyễn Đình Viên (bị sửa thành Nguyễn Đình Yên), thu lệ phí đất Cầu ông Đục... số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng)" ngày 30/03/1995;
(3) Biên bản bàn giao đất ở dân cư của UBND xã Nghi Trường cho ông Nguyễn Đình Hải ngày 08/03/2004;
(4) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, diện tích 400 m2 từ bà Nguyễn Thị Thành (người khởi kiện) sang cho ông Nguyễn Thành Cương được UBND xã Nghi Trường chứng thực, không đề ngày tháng năm ký;
(5) Đơn xin chuyển nhượng đất ở gắn liền với tài sản nhà ở giữa gia đình bà Nguyễn Thị Thành và ông Nguyễn Thanh Cương, có chữ ký của người làm chứng: Nguyễn Đình Năm ngày 11/04/2007;
(6) Giấy xác nhận của UBND xã Nghi Trường, theo đơn của ông Nguyễn Đình Yên ngày 10/12/2011;
(7) Giấy giải trình "về việc chênh lệch diện tích thửa đất giữa kết quả đo đạc mới với diện tích ghi trong giấy tờ sử dụng đất (hoặc diện tích ghi trong hồ sơ địa chỉnh) của hộ gia đình", người viết: Nguyễn Đình Hải, ngày 12/12/2011;
(8) Đơn đề nghị "về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất", người kê khai: Nguyễn Đình Hải ngày 27/05/2012;
(9) Biên bản họp Hội đồng đăng ký đất đai xã "xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do UBND xã giao đất giai đoạn sau ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/07/2004", đề ngày 01/06/2012;
(10) Thông báo số 14/TB-UBND của UBND xã Nghi Trường "về việc công khai kết quả cấp GCN QSD đất của Hội đồng đăng ký đất đai xã" ngày 04/06/2012;
(11) Biên bản kiểm tra "việc thu tiền cấp đất ở cho ông Nguyễn Đình Hải (con ông Nguyễn Đình Yên) xóm 3 xã Nghi Trường" ngày 30/08/2013;
(12) Biên bản thẩm định "cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (các trường hợp sử dụng đất có nguồn gốc sau ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/07/2004)" của UBND xã Nghi Trường" đề ngày 30/10/2013;
(13) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BP 297116 cho ông Nguyễn Đình Hải và bà Phạm Thị Quỳnh Vân, thửa đất số 717, tờ bản đồ số 01, diện tích 319,0m2 cấp ngày 28/11/2013;
(14) Giấy xác nhận số 19/GXN-UBND của UBND xã Nghi Trường "nguồn gốc và quá trình sử dụng đất (đối với trường hợp cấp GCN QSD đất lần đầu)" ngày 20/07/2020;
- Kết quả giải quyết của các cơ quan chức năng:
(1) Ngày 22/06/2021, Chủ tịch UBND huyện Nghi Lộc đã ban hành Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND "về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thành, phường Phú Mỹ, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh (lần đầu)";
(2) Ngày 17/09/2021, UBND xã Nghi Trường ban hành Công văn số 55/UBND-TD "về việc trả lời kết quả giải quyết đơn thư của công dân";
(3) Ngày 08/11/2021, UBND xã Nghi Trường có Báo cáo số 63/BC-UBND (TD) "về việc giải quyết đơn thư của công dân";
(4) Ngày 22/11/2021, UBND huyện Nghi Lộc ban hành Văn bản số 4204/UBND-BDT "về việc báo cáo kết quả giải quyết đơn của công dân";
(5) Ngày 07/04/2022, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Văn bản số 2383/UBND-TD "về việc xử lý sau kiểm tra, rà soát đơn của công dân".
Người khởi kiện cho rằng, các văn bản nêu trên, đặc biệt Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND có những thông tin, kết luận không khách quan không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người khởi kiện, không triệt để giải quyết các vấn đề mâu thuẫn, bởi các lý do và căn cứ trình bày dưới đây.
Xem thêm: Kỹ năng của luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính
Thứ nhất, nội dung "Năm 1999, UBND xã Nghi Trường đổi cho gia đình ông Viên thửa đất tại cồn ông Đục giáp cầu ông Chèn (bám quốc lộ 48E) sang 02 suất đất tại xóm 3, xã Nghi Trường (bám đường Đức Thiết) có diện tích 500 m2". Nội dung chỉ dựa vào lời trình bày của ông Hoàng Văn Biên (nguyên Chủ tịch UBND xã Nghi Trường) để kết luận có sự việc "đổi đất" là không có căn cứ chứng minh và không khách quan. Bởi lẽ:
(a) Quá trình xác minh, UBND xã Nghi Trường và UBND huyện Nghi Lộc không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ chứng minh nào thể hiện có sự việc "đổi đất". Người khởi kiện khẳng định, ông Nguyễn Đình Viên không có bất kỳ văn bản, yêu cầu hoặc đề nghị nào về việc đổi đất giữa hai thửa đất (nêu trên).
(b) Ông Hoàng Văn Biên không cung cấp được đơn đổi đất. Ông Hoàng Văn Biên là thành viên Hội đồng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Đình Hải, nhưng đã làm sai lệch hồ sơ, do đó chúng tôi có căn cứ lời khai này của ông Hoàng Văn Biên không đáng tin cậy.
Thứ hai, một số nội dung kết luận tại Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND không chính xác.
Cụ thể các nội dung (a) “Năm 2004, UBND xã giao 02 lô đất, có diện tích 500 m2 (đất ở 400 m2) tại xóm 3, xã Nghi Trường của ông Nguyễn Đình Viên (được đổi từ đất mua tại vị trí cồn ông Đục cầu ông Chèn) cho ông Nguyễn Đình Hải là không đúng đối tượng được giao đất sử dụng. Trách nhiệm này thuộc về ông Hoàng Văn Biên - Chủ tịch UBND xã, ông Nguyễn Đình Huyên cán bộ địa chính xã thời kỳ năm 2004”; (b) “Năm 2012, UBND xã Nghi Trường lập hồ sơ đề nghị UBND huyện Nghi Lộc cấp GCN QSD đất cho ông Nguyễn Đình Hải, trong khi thủ tục hồ sơ mua đất đều thể hiện của ông Nguyễn Đình Viên. Dẫn đến, UBND huyện Nghi Lộc cấp GCN QSD đất, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại Quyết định số 2899/QĐ-UBND ngày 28/11/2013 cho ông Nguyễn Đình Hải (con trai ông Nguyễn Đình Yên) là không đúng đối tượng sử dụng đất theo quy định của pháp luật".
Những kết luận là "trường hợp giao đất không đúng đối tượng" và "cấp Giấy chứng nhận không đúng đối tượng sử dụng đất" không chính xác. Đây phải thuộc trường hợp: làm giả, lập khống hồ sơ, làm sai lệch hồ sơ cấp GCN QSD đất cho anh Nguyễn Đình Hải. Về nội dung này, người khởi kiện đưa ra chứng cứ:
(a) Chứng cứ là: Phiếu thu lệ phí ngày 30/03/1995, nội dung: "Thu lệ phí cấp đất ở Cồn ông Đục đợt trước nộp còn thiếu" đề tên ông Nguyễn Đình Yên. Đây là giấy tờ để ông Nguyễn Đình Yên và anh Nguyễn Đình Hải nộp cùng với đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường.
Quá trình giải quyết khiếu nại, UBND xã Nghi Trường và UBND huyện Nghi Lộc cho rằng: ông Nguyễn Đình Yên nộp hộ ông Nguyễn Đình Viên. Thế nhưng, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Nghi Lộc đã thông báo Kết luận giám định số 981/TB-CQĐT ngày 25/04/2023, nội dung: "có dấu vết sửa chữa tại chữ Viên thành: Yên". Ông Nguyễn Đình Yên đã dùng Phiếu thu số tiền 1.000.000 đồng ngày 30/03/1995 mang tên "Nguyễn Đình Yên" như một chứng cứ (chứng minh về mặt giấy tờ) về quyền sử dụng đất để lập Hồ sơ cấp GCN QSD đất cho anh Nguyễn Đình Hải.
(b) Chứng cứ là: Giấy xác nhận ngày 10/12/2011, nội dung: "Năm 1995 tôi được phân đất dặm tại khu vực cầu ông Đục. Nhưng đến ngày 08/03/2004 tôi (Nguyễn Đình Yên) được UBND xã Nghi Trường đổi đất về xóm 3 xã Nghi Trường nên gia đình tôi đồng ý trong biên bản giao đất ghi tên là Nguyễn Đình Hải con trai của tôi (có biên bản giao đất kèm theo)". Đây là xác nhận giả mạo, sai lệch hoàn toàn về vấn đề bởi: ông Nguyễn Đình Yên không được "phân đất dặm tại cầu ông Đục"; và ông Nguyễn Đình Yên cũng không được “UBND xã Nghi Trường đổi đất về xóm 3 xã Nghi Trường”.
(c) Chứng cứ là: Biên bản giao đất ở dân cư ngày 08/3/2004 của Ban nhân dân xã Nghi Trường, do ông Hoàng Văn Biên (nguyên chủ tịch xã) và anh Nguyễn Đình Hải lập có nội dung: người được giao đất là "anh Nguyễn Đình Hải", "đổi đất khu vực Cầu ông Chèn". Tuy nhiên, biên bản giao đất ở dân cư này hoàn toàn sai lệch về người sử dụng của thửa đất. Thực tế, anh Nguyễn Đình Hải chưa bao giờ được giao đất, người được giao đất là ông Nguyễn Đình Viên. Sau này, ông Nguyễn Đình Yên và UBND xã Nghi Trường lấy Biên bản giao đất ở dân cư ngày 08/3/2004 là căn cứ minh chứng cho việc có giấy tờ về quyền sử dụng đất và đất có nguồn gốc được UBND xã Nghi Lộc giao để cấp GCN QSD đất cho anh Nguyễn Đình Hải.
(d) Chứng cứ là: Giấy giải trình về việc chênh lệch diện tích thửa đất do anh Nguyễn Đình Hải ký - có xác nhận của cán bộ địa chính - bà Nguyễn Thị Hải Yến và Chủ tịch UBND xã nội dung: "Lý do chênh lệch: Do chuyển nhượng một phần cho ông Cương", sau đó UBND xã xác nhận: "ông Nguyễn Đình Hải được cấp 500 m2, nay đo đạc là 319 m2 giảm 181 m2 do chuyển nhượng cho ông Cương một phần diện tích". Đây là xác nhận sai sự thật, bởi anh Nguyễn Đình Hải không có bất kỳ chuyển nhượng phần diện tích nào cho ông Nguyễn Thanh Cương.
(đ) Chứng cứ là: Toàn bộ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP297116 cho anh Nguyễn Đình Hải, thể hiện qua các tài liệu đều sai sự thật: [i] Đơn đề nghị cấp Giấy CNQSD đất ngày 27/05/2012 của anh Nguyễn Đình Hải, thể hiện nguồn gốc sử dụng: "nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất", "thời điểm sử dụng từ năm 2004". [ii] Biên bản họp Hội đồng đăng ký đất đai xã ngày 01/06/2012; [iii] Thông báo số 14/TB-UBND của UBND xã Nghi Trường về công khai kết quả xét cấp GCN QSD đất của Hội đồng đăng ký đất đai xã ngày 04/06/2012, thể hiện: Hội đồng đăng ký đất đai đã qua thẩm định thực địa, kiểm tra nguồn gốc và xác nhận rằng: "Nguồn gốc lô đất do UBND xã giao năm 2004", "Giấy tờ về QSD lô đất có: hóa đơn nộp tiền và biên bản giao đất"; [iv] Biên bản thẩm định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 30/10/2013. Những căn cứ giả tạo, những nội dung xác nhận gian dối, sai lệch hoàn toàn bản chất, có sự kết hợp giữa: ông Nguyễn Đình Yên, anh Nguyễn Đình Hải, ông Hoàng Văn Biên và một số cán bộ UBND xã Nghi Trường.
Thứ ba, nội dung xác định không đúng sự việc xây nhà tại "thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường".
Năm 2004, gia đình người khởi kiện xây dựng tường bao cho toàn bộ diện tích thửa đất tại xóm 3 xã Nghi Trường, sau đó, xây dựng căn nhà 01 (một) tầng, diện tích khoảng 70-80 m2 tại thửa đất nêu trên. Việc làm này có nhiều hàng xóm biết và có thể làm chứng. Ông Nguyễn Đình Lâm (xóm trưởng) tại thời điểm chuyển nhượng xác nhận: "Đơn xin chuyển nhượng đất trình bày trên là đúng sự thật" và UBND xã Nghi Trường xác nhận, phù hợp với lời trình bày của ông Nguyễn Thanh Cương tại Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND: "năm 2007, ông có mua thửa đất có nhà và tài sản trên đất của bà Nguyễn Thị Thành".
Kết luận tại Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND: "ông Cương đã xây dựng nhà và sử dụng ổn định từ năm 2007" (dòng thứ 37, trang 4) và cho rằng: “Thửa đất của bà Nguyễn Thị Thành được ông Nguyễn Đình Yên xây dựng bờ rào bao quanh cả phần diện tích UBND xã Quản lý, hiện nay chưa sử dụng" (dòng thứ 1, trang 5) - sai sự thật.
Kết luận tại Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND: "Yêu cầu ông Nguyễn Đình Yên tháo dỡ phần bờ rào đã xây dựng lấn chiếm trên phần diện tích đất UBND xã quản lý". Thực tế là, gia đình người khởi kiện mới là người xây dựng toàn bộ bờ rào, được ông Nguyễn Thanh Cương làm chứng - đã nêu rõ tại Quyết định 1661/QĐ-CTUBND nhưng sau đó lại kết luận không đúng bản chất sự việc.
Thứ tư, kết luận chiều sâu của thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường "20 m" là không đúng thực tế.
UBND huyện Nghi Lộc xác định thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường có diện tích 500 m2 (đất ở 400 m2) chiều rộng 25 m, chiều sâu 20 m, đặc biệt với chiều sâu 20 m là không đúng thực tế. UBND huyện Nghi Lộc không cung cấp được đơn đổi đất của ông Nguyễn Đình Viên - như lời trình bày của ông Hoàng Văn Biên: "ông Nguyễn Đình Yên gửi đơn đổi đất và đơn này được ông Điểm Chủ tịch ký xác nhận".
Thực tế gia đình người khởi kiện được giao thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường, diện tích khoảng 1.000 m2, có chiều sâu là 40 m. Căn cứ theo ‘trích sơ đồ thửa đất’ đã được UBND xã Nghi Trường đóng dấu của ông Hoàng Văn Biên (chủ tịch) và cán bộ địa chính - ông Nguyễn Đình Huyên.
Lưu ý, các lô đất lân cận của các hộ dân sử dụng các thửa đất có lịch giống gia đình người khởi kiện đều được cấp GCN QSD đất với chiều sâu là 40m. Do đó, tôi cho rằng, việc xác định chiều sâu của thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường 20 m tại Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND là không khách quan.
Xem thêm: Kỹ năng của Luật sư trong khởi kiện vụ án hành chính
Người khởi kiện đã nhiều lần tiếp tục khiếu nại đến UBND tỉnh Nghệ An sau khi biết được Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND ban hành không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình mình.
Đến ngày 07/04/2022, UBND tỉnh Nghệ An mới ban hành Văn bản số 2383/UBND-TD nhưng nội dung không phải là giải quyết khiếu nại lần hai mà là xử lý sau kiểm tra, rà soát đơn của công dân. Người khởi kiện cho rằng:
Thứ nhất, văn bản số 2383/UBND-TD nêu rằng: "tại sổ sách kế toán UBND xã Nghi Trường năm 2000 không thể hiện, thông tin, chứng cứ về việc gia đình bà Nguyễn Thị Thành và ông Nguyễn Đình Viên mua đất tại xóm 3…" khẳng định "không có việc mua, bán đất giữa UBND xã Nghi Trường và gia đình bà Nguyễn Thị Thành" là không phù hợp với sự thật khách quan:
Người khởi kiện đặt câu hỏi: "Nếu không có việc mua bán đối với thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường, liệu UBND xã Nghi Trường, UBND huyện Nghi Lộc vào thời điểm năm 2002 có cho phép hoặc chấp thuận để gia đình người khởi kiện xây dựng nhà ở và làm tường bao toàn bộ diện tích đất với diện tích tổng là khoảng 1.000 m2 không". Đến thời điểm hiện tại, bà Thành chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính về việc xây dựng đối với ‘thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường’ nêu trên.
Thứ hai, văn bản số 2383/UBND-TD nêu rằng: Không có cơ sở xem xét giải quyết trả lại thửa đất tại cồn ông Đục giáp cầu ông Chèn, với lý do: “Biên bản giao đất ở dân cư ngày 28/03/2004 tại vị trí thửa đất tại xóm 3, xã Nghi Trường với diện tích được cấp là 500 m2, trong đó: Đất ở 400 m2, chiều ngang bám đường 25 m, chiều sâu 20 m, với lý do bàn giao đất là đổi đất khu vực cầu ông Chèn”.
Tuy nhiên, như phân tích (nêu trên), biên bản giao đất ở dân cư này hoàn toàn sai lệch về người sử dụng của thửa đất (thực tế, anh Nguyễn Đình Hải chưa bao giờ được giao đất, người được giao đất là ông Nguyễn Đình Viên), UBND huyện Nghi Lộc cũng đã kết luận tại Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND cho rằng việc giao đất này là không đúng đối tượng. Do đó UBND tỉnh Nghệ An không thể lấy Biên bản giao đất ở dân cư ngày 28/03/2004 làm lý do cho kết luận ‘có sự việc đổi đất’ tại văn bản số 2383/UBND-TD.
Do đó, tôi cho rằng Văn bản số 2383/UBND-TD ngày 07/04/2022 của UBND tỉnh Nghệ An ban hành không đúng về mặt hình thức giải quyết khiếu nại (không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần hai), đồng thời nội dung giải quyết không phù hợp và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình người khởi kiện.
- Chúng tôi trình bày thêm về lý do chậm khiếu nại lần thứ hai:
Cuối tháng 06/2021, người khởi kiện nhận được Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND của Chủ tịch UBND huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nhưng đến ngày 08/11/2022, người khởi kiện mới thực hiện khởi kiện quyết định nêu trên bởi lý do:
Trong khoảng thời gian từ tháng 07/2021 đến cuối năm 2021, Thành phố Hồ Chí Minh cao điểm về dịch Covid-19, các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu người dân không ra khỏi nhà, chỉ trong trường hợp cần thiết. Liên tục các chỉ thị, thông báo yêu cầu thực hiện giãn cách xã hội được đưa ra, khoảng thời gian này được xem là bất khả kháng và trở ngại khách quan nên không thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính của mình.
Cụ thể về thời gian thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giãn cách theo các quyết định của cơ quan có thẩm quyền:
Bắt đầu từ khoảng tháng 05/2021, sau kỳ nghỉ lễ 30/4 - 01/5, Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu bùng phát dịch Covid-19, Chỉ thị số 15/CT-TTg, Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về giãn cách xã hội liên tục được áp dụng, hạn chế người dân ra khỏi nhà trong thời hạn 14 ngày.
- Tháng 06/2021:
Từ ngày 22/6/2021 đến ngày 29/6/2023: Chỉ thị 10/CT-UBND ngày 19/06/2021 về siết chặt và tăng cường biện pháp phòng, chống dịch covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung: Mọi người dân chỉ ra ngoài trong trường hợp thật sự cần thiết như mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, cấp cứu, làm việc tại nhà máy, phân xưởng, xí nghiệp và các trường hợp khác do Sở Y tế hướng dẫn.
- Từ tháng 07/2021 đến tháng 08/2021:
Từ 0 giờ 00 ngày 09/07/2021 đến ngày 01/08/2021: Công văn số 2279/UBND-VX ngày 08/07/2021 của UBND thành phố về việc áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo tinh thần nội dung Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/03/2020. Nội dung: Cách ly toàn Thành phố theo tinh thần Chỉ thị 16/CT-TTg trong vòng 15 ngày kể từ 0 giờ ngày 09/07/2021.
Từ ngày 23/7/2021 đến ngày 1/8/2021: Công văn số 2468/UBND-VX ngày 23/7/2021 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về việc tăng cường mạnh mẽ các biện pháp thực hiện giãn cách xã hội toàn Thành phố theo tinh thần Chỉ thị số 16/CT-TTG của Thủ tướng Chính phủ. Nội dung: Thực hiện Công văn số 2279/UBND-VX ngày 08/07/2021 đến hết ngày 01/08/2021.
Từ 0 giờ ngày 2/8/2021: Công văn 2556/UBND-VX ngày 01/08/2021 về tiếp tục áp dụng biện pháp giãn cách xã hội toàn Thành phố Hồ Chí Minh để phòng, chống dịch covid-19. Tại Điều 1 quy định: “Tiếp tục áp dụng biện pháp giãn cách xã hội toàn Thành phố theo tinh thần Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ thêm 14 ngày kể từ 00 giờ 00 ngày 02 tháng 8 năm 2021”,
- Tháng 09/2021:
Từ ngày 16/8/2021 đến ngày 15/9/2021: Công văn số 2718/UBND-VX ngày 15/8/2021 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về việc tiếp tục áp dụng biện pháp giãn cách xã hội toàn thành phố để quyết kiệt kiểm soát phòng, chống dịch Covid-19, với nguyên tắc “ai ở đâu thì ở đó”. Chỉ thị số 11/CT-UBND ngày 22/8/2021 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh, về tăng cường giãn cách xã hội và các biện pháp phòng, chống dịch covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ ngày 16/09/2021 đến ngày 30/09/2021: Công văn số 3072/UBND-VX ngày 15/09/2021 của UBND TPHCM về thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung: Về tiếp tục áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội và các biện pháp phòng, chống dịch toàn thành phố theo tinh thần Chỉ thị 16, Kế hoạch 2715, Chỉ thị 11 của UBND TP.HCM từ 0 giờ ngày 16/09/2021 đến hết 30/09/2021.
- Từ tháng 10/2021 đến tháng 12/2021:
Mặc dù thành phố Hồ Chí Minh đã có những quy định nới lỏng, giãn cách nhưng vẫn hạn chế người dân đi lại, với lý do ca nhiễm liên tục tăng cao, người dân chưa được tiêm vacxin đầy đủ. Các vùng, quận, huyện vẫn thực hiện giãn cách khi có ca nhiễm phát sinh tại địa bàn người khởi kiện sinh sống (Quận 7).
Tình hình thực tế Hồ Chí Minh lúc bấy giờ, việc đi lại, sinh hoạt vô cùng khó khăn. Bài viết trên báo Tuổi trẻ: Chủ tịch Phan Văn Mãi: 'Đến tháng 11, TP.HCM cũng chưa thể bình thường mới'.
Do tuổi đã cao (74 tuổi) trong thời điểm Covid-19, người khởi kiện phải ở nhà, tránh đi lại để không bị lây nhiễm Covid, nên việc thực hiện quyền khởi kiện của người khởi kiện sinh trong khoảng thời gian từ tháng 07/2021 đến tháng 12/2021 gặp khó khăn do trở ngại khách quan và bất khả kháng.
Xem thêm: Các kỹ năng của Luật sư tại phiên tòa sơ thẩm hành chính
Từ những căn cứ nêu trên, người khởi kiện kính đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:
(1) Huỷ một phần Quyết định số 1661/QĐ-CTUBND "về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thành, phường Phú Mỹ, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh (lần đầu)" của Chủ tịch UBND huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, cụ thể huỷ các kết luận sau:
"Năm 1999, UBND xã Nghi Trường đã đổi cho gia đình ông Viên thửa đất tại cồn ông Đục giáp cầu ông Chèn (bám quốc lộ 48E) sang 02 suất đất tại xóm 3, xã Nghi Trường (bám đường Đức Thiết) có diện tích 500 m2 (trong đó đất ở 400 m2), chiều rộng 25 m, chiều sâu 20 m; Thửa đất cách tim đường liên xã (đường Đức Thiết) 11 m".
"Năm 2004, UBND xã giao 02 lô đất, có diện tích 500 m2 (đất ở 400 m2) tại xóm 3, xã Nghi Trường của ông Nguyễn Đình Viên (được đổi từ đất mua tại vị trí cồn ông Đục cầu ông Chèn) cho ông Nguyễn Đình Hải là không đúng đối tượng được giao đất sử dụng".
"Năm 2007, bà Nguyễn Thị Thành chuyển nhượng một phần diện tích đất cho ông Nguyễn Thanh Cương với chiều dài 10m bám mặt đường Đức Thiết của lô đất được cấp, tương đương 200 m2. Diện tích theo hiện trạng sử dụng của ông Cương hiện nay là 339 m2, chiều rộng 9,98 m".
(2) Hủy văn bản số 2383/UBND-TD "về việc xử lý sau kiểm tra, rà soát đơn của công dân" ngày 07/04/2022 của UBND tỉnh Nghệ An do ban hành không đúng hình thức và nội dung không phù hợp với tình tiết khách quan, chứng cứ trong vụ án.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hành chính của Công ty Luật TNHH Everest
Luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện (tham khảo), được thực hiện bởi các luật sư của Công ty Luật TNHH Everest, dựa trên một vụ án hành chính có thật. Tên khách hàng và một số thông tin của vụ án đã thay đổi.
Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm