Người có quyền yêu cầu cấp dưỡng giữa các thành viên gia đình

19/10/2024
Lý Thông
Lý Thông
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cụ thể nghĩa vụ cấp dưỡng đối với từng chủ thể. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn cố ý trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ. Điều này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người được cấp dưỡng.

1- Khái niệm quan hệ cấp dưỡng giữa thành viên gia đình

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ nuôi dưỡng giũa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em, với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu ruột. Đồng thời, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng. Có thể nhận thấy rằng những người có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau cũng chính là những người có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau. Xét dưới góc độ luật học thì nghĩa vụ cấp dưỡng và nghĩa vụ nuôi dưỡng có mối quan hệ nội tại với nhau. Xuất phát từ tính tự nhiên và từ truyền thống gia đình Việt Nam nên thông thường khi cha, mẹ và con, anh, chị, em; ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu; vợ và chồng cùng sống chung với nhau (ăn chung, ở chung) thì họ nuôi dưỡng nhau thông qua việc cùng quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, chia sẻ với nhau. nhu cầu của họ được đảm bảo bằng một quỹ tiêu dùng chung (tài sản chung của hộ gia đình). Chỉ khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không sống chung với người được nuôi dưỡng thì họ mới phải thực hiện nghĩa vụ của mình bằng cách đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người đuợc nuôi dưỡng. Chính sự đóng góp đó đã làm thay đổi tính chất cũng Nhưphương thức của việc nuôi dưỡng. vì vậy, đã xuất hiện một nghĩa vụ mới, đó là nghĩa vụ cấp dưỡng. Có thể nhận định rằng nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ phái sinh từ nghĩa vụ nuôi dưỡng. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình quy định người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng khi có yêu cầu. Có thể nói, việc Tòa án buộc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là biện pháp chế tài. Được coi là trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng có một trong các hành vi như: Không chi tiêu một Khoản  tiền nào để thể hiện việc nuôi dưỡng đối với người được nuôi dưỡng; có hành vi che giấu tài sản của mình nhằm mục đích không nuôi dưỡng người được nuôi dưỡng; không đóng góp thu nhập hoặc tài sản của mình để phục vụ nhu cầu chung của gia đình, trong đó có nhu cầu của người được nuôi dưỡng; có khả năng lao động nhưng không nỗ lực tạo ra tài sản để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên gia đình. Tuy nhiên, không phải tất cả các thành viên gia đình đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau. Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em re, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột. Luật Hôn nhân và gia đình quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, bác mình bằng cách đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của người đuợc nuôi dưỡng. Chính sự đóng góp đó đã làm thay đổi tính chất cũng Nhưphương thức của việc nuôi dưỡng. vì vậy, đã xuất hiện một nghĩa vụ mới, đó là nghĩa vụ cấp dưỡng. Có thể nhận định rằng nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ phái sinh từ nghĩa vụ nuôi dưỡng. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình quy định người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng khi có yêu cầu. Có thể nói, việc Tòa án buộc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là biện pháp chế tài. Được coi là trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng có một trong các hành vi như: Không chi tiêu một Khoản  tiền nào để thể hiện việc nuôi dưỡng đối với người được nuôi dưỡng; có hành vi che giấu tài sản của mình nhằm mục đích không nuôi dưỡng người được nuôi dưỡng; không đóng góp thu nhập hoặc tài sản của mình để phục vụ nhu cầu chung của gia đình, trong đó có nhu cầu của người được nuôi dưỡng; có khả năng lao động nhưng không nỗ lực tạo ra tài sản để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên gia đình. Tuy nhiên, không phải tất cả các thành viên gia đình đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau. Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em re, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột. Luật Hôn nhân và gia đình quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu; giữa vợ và chồng. Như vậy, pháp luật quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên gia đình nhưng được giới hạn trong một phạm vi nhất định.

Nghĩa vụ cấp dưỡng vừa là một nghĩa vụ phát sinh do người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không sống chung với người được nuôi dưỡng, vừa là biện pháp chế tài đối với người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng đã trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình, cấp dưỡng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thể hiện nét riêng biệt của quan hệ tài sản trong Luật Hôn nhân và gia đình.

Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm cấp dưỡng như sau:

Cấp dưỡng là nghĩa vụ phát sinh giữa những người không sống chung với nhau nhưng đang có hoặc đã có quan hệ gia đình trong việc bảo đảm cuộc song cho người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng trong tình trạng mất hoặc bị giảm sút khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản hoặc tuy có nhưng không đủ đế bảo đảm cuộc song của mình, cấp dưỡng còn là biện pháp chế tài đối với người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về hợp đồng hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest

2- Người có quyền yêu cầu cấp dưỡng giữa thành viên gia đình

Như đã phân tích, cấp dưỡng chính là một phương thức đế thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng. Những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng nếu sống chung với nhau thì có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau, nếu không sống chung thi có nghĩa vụ cấp dưỡng. Do vậy, thông thường khi một người có nghĩa vụ nuôi dưỡng người khác mà. họ không thể cùng sống chung với người đó để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì họ tự nguyện đóng góp tiền hay tài sản khác để đảm bảo cuộc sống của người mà họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Hành vi tự nguyện cấp dưỡng này là do người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoàn toàn chủ động mà không có bất kì một yêu cầu nào từ phía người được cấp dưỡng hoặc từ người đại diện theo pháp luật của họ. Chẳng hạn, con đang sống cùng cha mẹ già, đang nuôi dưỡng cha mẹ thì con kết hôn và chuyển đi sống nơi khác. Do ý thức được nghĩa vụ của mình nên sau khi kết hôn người con vẫn tự nguyện biếu cha mẹ tiền hoặc tài sản để đảm bảo cuộc sống của cha mẹ mà không cần cha mẹ phải yêu cầu. Hoặc các con làm ăn, sinh sống xa cha mẹ, khi cha mẹ còn khỏe thì các con không phải chu cấp cho cha mẹ nhưng khi tự nhận thấy cha mẹ đã già yếu không lao động được thì các con tự nguyện cung cấp tiền, tài sản để phụng dưỡng cha mẹ...

Trong các trường hợp trên, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện tự nguyện trên cơ sở đạo lí mà không cần phải có bất kì một yêu cầu nào. Tuy nhiên, cũng có thế xuất hiện tình huống mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không biết được nghĩa vụ của mình hoặc có nhận biết được nghĩa vụ của mình nhưng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thì người cần được cấp dưỡng phải yêu cầu. Trước hết, người có quyền được cấp dưỡng hoặc người đại diện của người đó xác định người có nghĩa vụ và trực tiếp yêu cầu người này thực hiện nghĩa vụ. Chẳng hạn, cha mẹ không sống chung với con, khi còn khả năng lao động thì con không có nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng khi đã không còn khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi minh mà con không thực hiện nghĩa vụ thì cha mẹ có quyền trực tiếp yêu cầu con cấp dưỡng cho mình... Khi được đề nghị thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu người có nghĩa vụ nhận thấy rõ trách nhiệm của mình và họ thực hiện nghĩa vụ đó thì cũng được xác định là tự nguyện thực hiện nghĩa vụ. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trên cơ sở tự nguyện thì bên có nghĩa vụ cấp dưỡng và bên được cấp dưỡng hoặc người đại diện theo pháp luật của bên được cấp dưỡng thỏa thuận với nhau về phương thức cấp dưỡng, mức cấp dưỡng cho phù hợp với khả năng của bên có nghĩa vụ và nhu cầu của bên có quyền. Các bên có thể thỏa thuận miệng hoặc lập văn bản. Nếu lập văn bản thỏa thuận thì ghi rõ ngày bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, phương thức thực hiện và các nội dung khác như thay đổi mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng...

Đối với các trường hợp trên, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện mà không cần phải có bất kì một sự can thiệp nào từ phía các cơ quan có thẩm quyền. Do tính chất thiêng liêng của quan hệ gia đình nên thông thường khi một chủ thể cần được cấp dưỡng thì bên kia tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đó. Do vậy, trường hợp yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng giữa những người có quan hệ gia đình chỉ xảy ra khi có ly do đặc biệt như: Con, cháu coi thường đạo lí, pháp luật mà cố tình bỏ mặc cha mẹ, ông bà; cha, mẹ rất có khả năng về kinh tế nhưng cố tình không cấp dưỡng cho con khi ly hôn...

Trong trường hợp người phải cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì người có quyền được cấp dưỡng hoặc được nuôi dưỡng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo Khoản 2 Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì những nguời sau đây có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ:

- Người được cấp dưỡng, người thân thích hoặc người giám hộ của người được cấp dưỡng;

- Cơ quan quản lí nhà nước về gia đình;

- Cơ quan quản lí nhà nước về trẻ em;

- Hội liên hiệp phụ nữ.

Ngoài các cá nhân, cơ quan, tổ chức trên thì cá nhân, cơ quan, tố chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan quản lí nhà nước về gia đình, cơ quan quản lí nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ.

Khi nhận được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, Tòa án phải tiến hành điều tra, xác minh nếu có căn cứ cho rằng người yêu cầu được cấp dưỡng có đủ điều kiện để được cấp dưỡng và bên có nghĩa vụ có khả năng để cấp dưỡng thì Tòa án quyết định người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải cấp dưỡng theo khả năng của họ. Mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án gải quyết.

Bản án của Tòa án về cấp dưỡng được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị (Khoản 2 Điều 376 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ của mình theo quyết định của Tòa án thì người được cấp dưỡng hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ.

Xem thêm: Thù lao luật sư và Chi phí pháp lý tại Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Người có quyền yêu cầu cấp dưỡng giữa các thành viên gia đình được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Người có quyền yêu cầu cấp dưỡng giữa các thành viên gia đình có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Người có quyền yêu cầu cấp dưỡng giữa các thành viên gia đình

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.18665 sec| 984.664 kb