Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Nội dung bài viết
1- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người có sự phát triển bình thường về tâm sinh lý sẽ có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội khi đến tuổi nhất định. Năng lực này có thể sẽ không có hoặc bị mất đi do mắc bệnh liên quan đến hoạt động tâm thần. Người không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội do mắc bệnh được luật hình sự Việt Nam gọi là người trong tình trạng không có năng lực TNHS.
Như vậy, trong luật hình sự Việt Nam, tình trạng không có năng lực TNHS được dùng để chỉ tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh mà khi không ở trong tình trạng đó thì người đủ tuổi chịu TNHS được coi là có năng lực TNHS.
Việc kiểm tra tình trạng này trong thực tiễn áp dụng chỉ được đặt ra khi có sự nghi ngờ về hoạt động tâm thần của người có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest
2- Dấu hiệu xác định
Ở đây cần phân biệt “người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” với “người không có năng lực trách nhiệm hình sự”.
Người không có năng lực TNHS có thể là người trong tình trạng không có năng lực TNHS (theo Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015) hoặc là người chưa đến tuổi chịu TNHS (theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).
Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tình trạng không có năng lực TNHS là tình trạng của người do "... mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình".
Như vậy, có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực TNHS: Dấu hiệu y học (mắc bệnh) và dấu hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi).
-
Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
-
Về dấu hiệu tâm lý: Người trong tình trạng không có năng lực TNHS là người không có (hoặc không còn) năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó. Người trong tình trạng không có năng lực TNHS còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của hành vi của mình nhưng do bệnh lý không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.
Chỉ được coi là trong tình trạng không có năng lực TNHS khi đồng thời cả hai dấu hiệu: y học và tâm lý đều thoả mãn. Hai dấu hiệu này tuy có quan hệ với nhau (trong đó dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý có vai trò là kết quả) nhưng không có nghĩa đã mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển. Năng lực này có mất hay không không những phụ thuộc vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và vào tính chất của hành vi đã thực hiện. Có loại bệnh tâm thần luôn luôn làm mất năng lực TNHS, có loại bệnh chỉ làm mất năng lực này khi bệnh ở mức độ nhất định và có loại bệnh hoàn toàn không làm mất năng lực này.
Việc xác định hai dấu hiệu này đều thuộc nội dung của giám định tâm thần tư pháp. Kết luận giám định tâm thần tư pháp không chỉ xác định người thực hiện hành vi có tính chất gây thiệt hại cho xã hội có mắc bệnh tâm thần và có trong trạng thái bệnh khi thực hiện hành vi đó hay không mà còn xác định ảnh hưởng của bệnh đã mắc (nếu có) đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh.
Bên cạnh tình trạng không có năng lực TNHS, luật hình sự Việt Nam còn thừa nhận trường hợp tình trạng năng lực TNHS hạn chế. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của chủ thể bị hạn chế. Người này không thuộc trường hợp không có điều kiện để có lỗi, nhưng tình trạng năng lực TNHS hạn chế có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Lỗi của họ cũng là lỗi hạn chế và do vậy, luật hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực TNHS hạn chế là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tình tiết này được quy định cùng với những tình tiết khác tại Điều 51 BLHS.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest
3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm