Tranh chấp về hợp đồng bảo đảm

"Pháp luật là đạo đức biểu hiện ra bên ngoài, đạo đức là pháp luật ẩn giấu bên trong"

- Lincoln (Mỹ)

Tranh chấp về hợp đồng bảo đảm

Hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ của hợp đồng tín dụng, được lập ra với mục đích là xác lập biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay vốn theo hợp đồng tín dụng. Theo đó, họp đồng bảo đảm có mối liên hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào hợp đồng tín dụng đối với những điều khoản về bên được bảo đảm, bên nhận bảo đảm, phạm vi bảo đảm, thời hạn bảo đảm. Tranh chấp về hợp đồng bảo đảm bao gồm các tranh chấp: (i) Tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng; (ii) Tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng bảo đảm; (iii) Tranh chấp về việc thu hồi xử lý tài sản bảo đảm.

Liên hệ

I- BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG BẢO ĐẢM

1- Khái niệm về hợp đồng bảo đảm

Hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ của hợp đồng tín dụng, được lập ra với mục đích là xác lập biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay vốn theo hợp đồng tín dụng. Theo đó, họp đồng bảo đảm có mối liên hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào hợp đồng tín dụng đối với những điều khoản về bên được bảo đảm, bên nhận bảo đảm, phạm vi bảo đảm, thời hạn bảo đảm.

2- Đặc điểm của hợp đồng bảo đảm

- Về chủ thể: Chủ thể của hợp đồng bảo đảm có thể chính là bên vay hoặc bên thứ ba đứng ra bảo đảm bằng tài sản cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay theo hợp đồng tín dụng (khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP).

- Về hình thức: Nếu như Bộ luật dân sự 2005 quy định việc cầm cố tài sản, thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính, thì đến Bộ luật dân sự 2015 quy định về hình thức của hợp đồng bảo đảm được sửa đổi mở rộng hơn đối với cả hai loại hợp đồng thế chấp và hợp đồng cầm cố khi không quy định bắt buộc phải lập thành văn bản, trừ trường hợp một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ thì mỗi lần bảo đảm phải được lập thành văn bản (khoản 2 Điều 296) và trừ trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đối (khoản 2 Điều 119).

- Về hiệu lực: Việc ký kết hợp đồng cầm cố tài sản, thế chấp tài sản thể hiện ý chí và sự thỏa thuận giữa bên cho vay, bên vay và bên cầm cố, thế chấp, do vậy sau khi ký kết thì hợp đồng bảo đảm đã có giá trị ràng buộc nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, do yếu tố đặc thù của hợp đồng bảo đảm nên pháp luật có quy định những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực pháp luật và có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba.

- Về tính độc lập tương đối với hợp đồng tín dụng. Hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ, phát sinh từ hợp đồng chính là hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, điểm đặc thù của hợp đồng phụ này là có tính độc lập tương đối với hợp đồng chính, kể cả khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu nhưng hợp đồng phụ là hợp đồng bảo đảm vẫn có hiệu lực. Trừ trường hợp có thoả thuận của các bên, hợp đồng tín dụng bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì hợp đồng bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng tín dụng thì hợp đồng bảo đảm không chấm dứt; hợp đồng bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng tín dụng; hợp đồng tín dụng bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì hợp đồng bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng tín dụng thì hợp đồng bảo đảm không chấm dứt; hợp đồng bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng tín dụng. Bộ luật dân sự 2015 (khoản 2 Điều 407) cũng quy định không áp dụng nguyên tắc sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực dân sự

II- CÁC DẠNG TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO ĐẢM

1- Tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm

(I) Hợp đồng bảo đảm vô hiệu do yếu tố chủ thể

Hợp đồng bảo đảm và tính chất là hợp đồng phụ của hợp đồng tín dụng nên có yếu tố chủ thể tương đồng như hợp đồng tín dụng và bị vô hiệu do yếu tố chủ thể tương tự như hợp đồng tín dụng bị vô hiệu.

Đồng thời, về bản chất pháp lý, khi ký kết hợp đồng bảo đảm, bên bảo đảm mang tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc quyền sử dụng đất của mình cầm cố, thế chấp cho bên nhận bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay vốn. Do vậy, tài sản bảo đảm phải thỏa mãn điều kiện tiên quyết là tài sản thuộc sở hữu hoặc là quyền sử dụng đất hợp pháp của bên bảo đảm.

(II) Vô hiệu do tài sản bảo đảm không đủ điều kiện để thế chấp

Trong thực tiễn hoạt động tín dụng và thực tiễn xét xử, các trường hợp tranh chấp về hợp đồng bảo đảm vô hiệu do tài sản bảo đảm không đủ điều kiện để thế chấp diễn ra khá đa dạng. Đo sức ép của chỉ tiêu phát triển kinh doanh và khả năng chấp nhận, đánh giá rủi ro khá cởi mở trong hoạt động tín dụng, một số trường hợp, các tổ chức tín dụng nhận thế chấp quyền sử dụng đất khi đất không đủ điều kiện để thực hiện thế chấp theo quy định tại Luật Đất đai (Điều 188 Luật Đất đai năm 2013) như: chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất đang có tranh chấp hoặc thời hạn nhận thế chấp dài hơn thời hạn người thế chấp được quyền sử dụng đất. Đối với nhà ở là việc nhận thế chấp nhà ở không đủ điều kiện để thế chấp theo quy định tại Luật Nhà ở (Điều 118 Luật Nhà ở năm 2014) như: nhà ở chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, nhà ở đang có tranh chấp hoặc nhà ở hình thành trong tương lai chưa đủ điều kiện thế chấp.

(III) Vô hiệu do sai lệch về thông tin tài sản bảo đảm

Trong thực tiễn xét xử tranh chấp hợp đồng bảo đảm, nhiều trường hợp mô tả sai lệch thông tin về tài sản bảo đảm sẽ dẫn đến hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu. Đó là những trường hợp hợp đồng bảo đảm mô tả thông tin về tài sản bảo đảm một cách chi tiết, nhưng trên thực tế khi Tòa án đi xác minh tài sản tranh chấp thì thấy thông tin mô tả chi tiết đó bị sai lệch, ví dụ: thế chấp phương tiện vận tải nhưng mô tả sai số khung, số máy; thế chấp máy móc thiết bị nhưng lại mô tả sai số hiệu, serial của máy móc; thế chấp nhà 4 tầng nhưng thực tế lại là nhà 1 tầng... Tài sản bảo đảm có thể được miêu tả chung nhưng phải bảo đảm xác định được tài sản thế chấp là tài sản nào (khoản 2 Điều 295 Bộ luật dân sự 2015).

(IV) Vô hiệu do vi phạm về hình thức

Hợp đồng bảo đảm có quy định chặt chẽ về hình thức. Tuy nhiên, trong thực tiễn, vẫn xảy ra nhiều trường hợp hợp đồng thế chấp bị vô hiệu về một hình thức khi hợp đồng thế chấp nhà ở không được công chứng, chứng thực theo Điều 122 Luật nhà ở năm 2014, nhất là đối với những loại công trình xây dựng trên đất có công năng hỗn hợp giữa nhà ở và nhà sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, nhà xưởng xây dựng trên đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hoặc hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất không thực hiện đăng ký tại văn phòng đăng ký nhà đất theo quy định tại Điều 05 Luật Đất đai năm 2013, Điều 10 và Điều 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, được sửa đổi. bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP.

2- Tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng bảo đảm

Việc thực hiện hợp đồng bảo đảm diễn ra trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng được bảo đảm, kết thúc khi hợp đồng tín dụng được thanh lý. Trong thực tiễn, có nhiều vi phạm của bên bảo đảm là trong một số trường hợp là của bên nhận bảo đảm đối với việc quản lý tài sản theo đúng hợp đồng bảo đảm, dẫn đến tranh chấp giữa các bên.

Tuy nhiên, do đặc thù của hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm, nên khi bên bảo đảm vi phạm hợp đồng bảo đảm và tranh chấp xảy ra đến mức độ phát sinh rủi ro tín dụng thì tổ chức tín dụng thường sử dụng quyền quyết định thu hồi nợ trước hạn và nếu không thu hồi dư nợ thì tranh chấp cuối cùng khởi kiện ra Tòa án lại chuyển hóa sang tranh chấp hợp đồng tín dụng. Nhưng thời gian gần đây. khi ngày càng nhiều trường hợp, bên vay vốn không còn khả năng trả nợ, việc thu hồi nợ chỉ dựa vào xử lý tài sản bảo đảm của bên thứ ba, thì tranh chấp sẽ xảy ra giữa bên nhận bảo đảm với bên bảo đảm hoặc với bên khác như trình bày dưới đây.

Các trường hợp tranh chấp đòi vời bên báo đám xảy ra khi bên bảo đảm đơn phương chuyển giao, chuyển nhượng tài sản thế chấp cho bên khác, làm hư hỏng hoặc suy giảm giá trị của tài sản thế chấp, vi phạm nghĩa vụ quản lý tài sản thế chấp gây thiệt hại cho bên nhận thế chấp.
 
3- Tranh chấp về việc thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm

Việc thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm được pháp luật quy định rõ trong Nghị định số 163 2006 NĐ-CP, Nghị định số 11 2012 NĐ-CP và đồng thời lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật dân sự 2015. Tuy nhiên trên thực tế, đây là một hoạt động mà tổ chức tín dụng thường có nhiều vướng mắc và sai sót.
Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc bên bảo đảm, bên giữ tài sản vào đảm của khoản nợ xấu không giao tài sản bảo đảm hoặc giao không đúng theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm để xử lý tại sân đó nhằm giải quyết nợ xấu. Tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc xác định người có quyền xử lý- tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

Lưu ý, tranh chấp về xử lý nợ xẩu. tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục rút gọn (Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại TAND - Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP). Vì thế tranh chấp về thu hồi và xử lý tài sản bảo đàm là loại tranh chấp phổ biến nhất trong các tranh chấp hợp đồng bảo đảm.

4- Tranh chấp về phạm vi bảo đảm

Theo quy định của pháp luật, một tài sản có thể dùng để bảo đảm cho nhiều khoản vay, nhiều hợp đồng tín dụng của một hay nhiều bên vay và tại một hay nhiều tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, hợp đồng bảo đảm phải quy định rõ phạm vi bảo đảm. Trong nghiệp vụ tín dụng, có nhiều phương án xác định phạm vi bảo đảm: cho hợp đồng tín dụng cụ thể, có thể là hợp đồng tín dụng hạn mức hoặc hợp đồng tín dụng từng lần: cho số tiền vay cụ thể lương hợp đồng tín dụng; cho một hay nhiều bên vay vốn trong một khoảng thời gian cụ thể.

Trong thực tiễn, những hợp đồng bảo đảm không quy định rõ phạm vi bảo đảm đều dẫn đến tranh chấp và khi vụ án được xét xử tại Tòa án thì phần thua thiệt không thuộc về tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tranh chấp thường xảy ra đối với hợp đồng tín dụng đã quy định rõ phạm vi bảo đảm, nhưng khi xử lý tài sản thì tổ chức tín dụng lại xử lý quá phạm vi bảo đảm đã được quy định, gây thiệt hại cho bên bảo đảm.

5- Tranh chấp về trình tự, thủ tục thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP cũng như Bộ luật dân sự 2015 quy định khá cụ thể về trình tự, thủ tục thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm. Nhưng trên thực tế, vì yếu tố khách quan, do cần yếu tố bất ngờ để tránh sự chống đối của các bên liên quan, có tổ chức tín dụng đã thực hiện không theo đúng trình tự, thủ tục khi thu hồi và xử lý tài sản bảo đảm và dẫn đến tranh chấp phức tạp, ảnh hưởng đến quá trình xử lý tài sản bảo đảm.

Các tranh chấp phát sinh khi: (i) Tổ chức tín dụng, người xử lý tài sản không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thủ tục thông báo trước cho bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm và các bên nhận bảo đảm khác, nếu có; (ii) Tài sản bảo đảm bị xử lý không trong thời hạn do các bên thỏa thuận, nếu không có thoả thuận thì bị xử lý nhưng không được trước bảy ngày đối với động sản hoặc mười lăm ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm; (iii) Áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.

6- Tranh chấp về phương thức xử lý tài sản

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP (Điều 59) và Bộ luật dân sự 2015 (từ Điều 303 đến Điều 305) quy định về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận gồm: (i) Bán tài sản bảo đảm; (ii) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; (iii) Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ; và (iv) Phương thức khác do các bên thỏa thuận.

Trường hợp không thỏa thuận được thì tài sản bảo đảm được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Riêng đối với tài sản bảo đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác (Điều 65 và Điều 68 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP).

Trên thực tế, khi đã phát sinh vi phạm hợp đồng tín dụng, vi phạm hợp đồng bảo đảm, phát sinh nợ quá hạn và nảy sinh tranh chấp thì có rất ít trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về phương thức xử lý tài sản. Khi đó, các tổ chức tín dụng thường chủ động tiến hành bán tài sản bảo đảm và việc bán tài sản này trong nhiều trường hợp không thực hiện đúng quy trình bán tài sản. Tranh chấp thường xảy ra về việc: bán đấu giá không tuân thủ đúng quy định về bán đấu giá, bán không qua đấu giá đối với những tài sản quy định phải bán đấu giá, thủ tục định giá tài sản để bán không đúng quy định, không thực hiện đúng thủ tục thông báo bán tài sản, việc hạ giá bán và chốt giá bán không đúng quy định.
 
III-  NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG  LUẬT NỘI DUNG KHI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẢM BẢO

Khi xem xét phạm vi áp dụng luật nội dung để giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm, Luật sư cần lưu ý những vấn đề mang tính nguyên tắc sau:

Thứ nhất, nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trong trường hợp luật chuyên ngành có những quy định đặc thù khác với quy định của Bộ luật dân sự. Trường hợp các luật chuyên ngành không có quy định hoặc có quy định nhưng không rõ ràng, có quy định nhưng trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự 2015 thì các quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng để điều chỉnh (khoản 3 Điều 4 Bộ luật dân sự 2015). Việc áp dụng luật cần bảo đảm tư duy logic, hệ thống và tư duy biện chứng.

Thứ hai, nguyên tắc về các loại nguồn theo thứ tự ưu tiên áp dụng theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 (từ Điều 4 đến Điều 6): Áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật và trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ và lẽ công bằng.

Thứ ba, việc vận dụng, áp dụng luật chuyên ngành cần lưu ý yếu tố không gian, thời gian và tính lịch sử, cũng như những đặc thù của quan hệ hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm.


Tổng hợp từ Giáo trình Kỹ năng chuyên sâu của Luật sư trong việc giải quyết các vụ án dân sự - Học viện Tư pháp và một số nguồn khác.

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
5 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Tranh chấp về hợp đồng bảo đảm

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
2.49275 sec| 1143.391 kb