Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

05/11/2024
Phạm Gia Minh
Phạm tội có tổ chức được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết này không những được quy định chung tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 mà còn được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của nhiều tội phạm như ở tội giết người (Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015), Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325 Bộ luật hình sự năm 2015). Vậy vấn đề trách nhiệm hình sự đặt ra trong đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam như thế nào?

1- Các vấn đề liên quan đến xác định tội phạm

[a] Vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm

Đối với những tội phạm có chủ thể đặc biệt, luật hình sự chỉ đòi hỏi người thực hành có đặc điểm của chủ thể đó. Những người đồng phạm khác không nhất thiết phải có những đặc điểm của chủ thể đặc biệt. Ví dụ: Trong vụ tham ô tài sản, người thực hành phải là người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản còn những người đồng phạm khác (xúi giục, giúp sức, tổ chức) có thể là người không có chức vụ, quyền hạn như vậy.

[b] Vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm

Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân khách quan thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào, họ phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó.

Nếu người bị xúi giục không nghe theo, sự xúi giục không có kết quả thì chỉ riêng người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ muốn xúi giục.

Nếu người giúp sức giúp người khác thực hiện tội phạm nhưng người này không thực hiện tội phạm đó hoặc không sử dụng sự giúp sức thì người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ muốn giúp sức. Ví dụ: Canh gác giúp người khác để người này bán chất ma tuý nhưng thực tế không có chất ma tuý mà chỉ là lừa dối bán chất ma tuý giả để chiếm đoạt tài sản của người mua. Trong trường hợp này, người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý (Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015).

[c] Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm

Trong vụ đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một người hay một số người thì việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Đối với người thực hành, vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng như trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì chỉ riêng họ được miễn trách nhiệm hình sự. Những người đồng phạm khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm họ đã tham gia ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, tùy thuộc vào thời điểm mà người thực hành đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Đối với người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải được thực hiện trước khi người thực hành thực hiện tội phạm và phải có hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình, để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm (như thu hồi lại công cụ, phương tiện đã cho mượn).

Xem thêm: Dịch vụ Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

2- Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm

Việc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm vừa phải tuân thủ những nguyên tắc chung được áp dụng cho tất cả những trường hợp phạm tội, vừa phải tuân thủ những nguyên tắc riêng cho trường hợp đồng phạm. Theo luật hình sự Việt Nam, việc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm phải tuân thủ các nguyên tắc riêng sau:

[a] Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm

Trong đồng phạm, tội phạm được thực hiện là do sự nỗ lực hợp sức chung của tất cả những người cùng tham gia.

Hành vi của mỗi người là bộ phận cần thiết trong hoạt động chung đó. Hậu quả thiệt hại của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Hơn nữa, bản thân tội phạm cũng là thể thống nhất. Do vậy, không thể chia cắt tội phạm đề buộc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm về một phần của tội phạm.

Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam xác định:

- Tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về cùng tội danh, theo cùng điều luật và trong phạm vi chế tài điều luật ấy quy định.

- Các nguyên tắc chung về việc truy cứu trách nhiệm hình sự, về quyết định hình phạt, về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà những người đồng phạm đã thực hiện được áp dụng chung cho tất cả.

- v.v..

[b] Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm

Trong vụ đồng phạm, mỗi người đồng phạm tuy phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm mà họ cùng thực hiện, nhưng do trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân nên việc xác định trách nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm vẫn phải dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi người. Do đó, luật hình sự Việt Nam đã xác định nguyên tắc thứ hai trong việc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là "mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập" về việc cùng thực hiện tội phạm. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ:

- Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người đồng phạm khác. Trong đó, hành vi vượt quá của người đồng phạm được hiểu là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm và hành vi này có thể cấu thành tội phạm khác hoặc thoa mãn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. Ví dụ: A và B đã bàn bạc và thống nhất sẽ vào trộm cắp tài sản nhà anh X. Trong khi A đứng gác, B đã bí mật vào nhà anh X. Trong khi đang lấy tài sản, B đã bị anh X phất hiện và bắt giữ. B đã đánh anh X bị thương để tẩu thoát. Việc làm này nằm ngoài kế hoạch của A và B. Hành vi gây thương tích của B có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015) hoặc thoả mãn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài sản (điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015). Điều này tuỳ thuộc vào mức độ thương tích gây ra cho nạn nhân.

- Việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác.

- Hành vi của người tổ chức, xúi giục hay giúp sức dù chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

- Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác...

[c] Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm

Trong vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng một tội nhưng tính chất và mức độ tham gia của họ không giống nhau, hành vi tham gia của mỗi người có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội riêng. Do vậy, trách nhiệm hình sự của mỗi người phải được xác định khác nhau.

Thể hiện nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam xác định chính sách hình phạt của Nhà nước là "Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng". Đó là "nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chi huy, ngoan cố chống đối... khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội...” (Khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015).

Chính sách này được thể hiện đặc biệt rõ trong đường lối xét xử các vụ đồng phạm về tội xâm phạm an ninh quốc gia. Bởi vì trong các vụ án này, bên cạnh người cẩm đầu, chủ mưu, hoạt động đắc lực còn có khá đông phạm tội do bị lửa phỉnh, ép buộc...

Chính sách nghiêm trị kết hợp với khoan hồng cũng được thể hiện rõ trong các vụ đồng phạm về các tội phạm khác nếu trong các vụ đồng phạm này có sự phân hóa rõ rệt hai loại người - một bên là người cầm đầu và một bên là những người nhất thời phạm tội.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Bình luận
X
0.14583 sec| 848 kb