Vốn trong công ty cổ phần
I- CỔ PHẦN, CỔ PHIẾU
1. Cổ phần
Cổ phần là vấn đề pháp lý cơ bản của CTCP. Cổ phần mang bản chất là quyền tài sản được thể hiện bằng cổ phiếu, nó là phần chia nhỏ nhất của vốn điều lệ của công ty. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cổ phần có những đặc điểm sau:
- Cổ phần là một đơn vị biểu hiện quyền sở hữu tài sản trong công ty, nó là căn cứ pháp lý xác lập tư cách thành viên của công ty, bất kể họ có tham gia thành lập công ty hay không, người sở hữu cổ phần là cổ đông của công ty, nó có hiệu lực tuyệt đối, người nắm giữ cổ phần có đầy đủ quyền năng và duy nhất, trực tiếp thực hiện quyền của mình đối với công ty. Từ cổ phần phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các cổ đông. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu chúng các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
- Cổ phần được xác định mệnh giá do công ti quyết định và ghi vào cổ phiếu. Mệnh giá cổ phần có thể khác với giá chào bán cổ phần, giá chào bán cổ phần do hội đồng quản trị của công ty quyết định nhưng không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất, trừ những trường hợp pháp luật có quy định.
- Tính không thể phân chia bởi cổ phần là phần vốn nhỏ nhất và bằng nhau trong vốn điều lệ.
- Tính dễ dàng chuyển nhượng. Đây cũng là điểm đặc trưng của CTCP, bởi CTCP là loại hình công ty đặc trưng cho công ty đối vốn, nghĩa là tất cả những thuộc tính của công ty đối vốn đều được thể hiện đầy đủ nhất trong CTCP. Về phương diện kinh tế, tính dễ dàng chuyển nhượng cổ phần tạo ra sự năng động về vốn song vẫn giữ được tính ổn định về tài sản của công ty. về phương diện pháp lý thì khi một người đã góp vốn vào công ty thì họ không có quyền rút vốn ra khỏi công ty, trừ trường hợp công ty giải thể. Bởi lẽ CTCP là một pháp nhân có tài sản riêng độc lập với tài sản của các thành viên đã tạo lập ra nó. Khoản 1 Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định...”. Vì vậy, một thành viên công ty nếu không muốn ở công ty thì chỉ có cách là chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác mà thôi. Trong CTCP, việc chuyển nhượng cổ phần rất dễ dàng thuận tiện đã tạo ra cho CTCP có cấu trúc vốn mở và cổ đông trong CTCP thường xuyên thay đổi.
Cổ phần của CTCP có thể được chia thành hai loại: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định CTCP phải có cổ phần phổ thông, người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Loại cổ phần này thể hiện tuyệt đối quyền làm chủ công ty. Ngoài cổ phần phổ thông, CTCP có thể có cổ phần ưu đãi, người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông, số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ti quy định.
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức, là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ti. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại, là cổ phần được công ti hoàn lại vốn góp theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại.
Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi, nhưng cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Tại sao lại như vậy? Có thể suy luận vấn đề này như sau: cổ phần phổ thông là cổ phần bắt buộc phải có trong CTCP, còn cổ phần ưu đãi có thể có hoặc không do Điều lệ công ti quy định. Vậy giả sử cho phép cổ phần phổ thông được chuyển thành cổ phần ưu đãi, và cũng giả sử nếu tất cả các cổ đông phổ thông đều chuyển thành cổ đông ưu đãi thì lúc đó công ti sẽ không còn cổ đông phổ thông, điều đó là vi phạm pháp luật.
2. Cổ phiếu
Như đã phân tích ở phần trên, cổ phần là tài sản mang lại cho chủ sở hữu những quyền lợi nhất định, cổ phần biểu hiện ra bên ngoài thông qua một chứng thư (giấy chứng nhận, chứng chỉ...) được cấp khi mua cổ phần được gọi là cổ phiếu (một loại chứng khoán).
Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ti đó (khoản 1 Điều 120 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên, thông thường cổ phiếu chỉ được cấp khi cổ đông đã góp đủ tiền và dưới hình thức không ghi tên.[II] Điều đó nhằm đảm bảo cho việc chuyển nhượng cổ phiếu không ghi tên được dễ dàng, thuận tiện. Trong khi đó cổ phiếu có ghi tên khi chuyển nhượng phải làm thủ tục sang tên đổi chủ. Luật công ti của một số nước quy định mệnh giá tối thiểu của một cổ phiếu (giá trị các cổ phần được phản ánh trong cổ phiếu) và theo nguyên tắc làm tròn số. Luật Doanh nghiệp năm 2014 của Việt Nam không quy định về vấn đề này, nhưng trong thực tế các CTCP thường phát hành các cổ phiếu có mệnh giá theo quy định của pháp luật chứng khoán để dễ dàng so sánh trên thị trường chứng khoán.
Về mặt pháp lý, cổ phiếu có những đặc điểm cơ bản sau:
- Mỗi cổ phiếu có một giá trị ban đầu được tính bằng tiền gọi là mệnh giá cổ phiếu, mệnh giá cổ phiếu chỉ là giá trị danh nghĩa. Giá trị thực tế của cổ phiếu sẽ phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ti và các yếu tố khác của thị trường. Nếu công ti kinh doanh có lãi, có uy tín thì sẽ có nhiều người muốn đầu tư vào công ti, lúc đó giá trị thực tế của cổ phiếu sẽ lớn hơn mệnh giá và ngược lại nếu công ti kinh doanh bị thua lỗ, kém hiệu quả thì giá trị của cổ phiếu sẽ bằng hoặc thấp hơn mệnh giá.
- Cổ phiếu là giấy tờ có giá trị chứng minh tư cách chủ sở hữu cổ phần và đồng thời là tư cách thành viên công ti của người có cổ phần. Vì vậy, cổ phiếu thường không có thời hạn, nó sẽ tồn tại cùng với sự tồn tại của CTCP phát hành ra nó.
Cổ phiếu là một loại hàng hoá được lưu thông trên thị trường, nói cách khác cổ phiếu được chuyển nhượng từ người này sang người khác, cổ phiếu có thể được dùng làm tài sản thừa kế, tài sản thế chấp, cầm cố trong các quan hệ tín dụng.
Ngày nay, nhờ có khoa học công nghệ phát triển, người ta không dùng giấy tờ ghi chép cổ phiếu mà đưa các thông tin về cổ phiếu vào hệ thống máy tính. Các cổ đông có thể mở tài khoản cổ phiếu tại ngân hàng và được quản lí chặt chẽ đảm bảo bí mật, an toàn cho các cổ đông. Như đã phân tích ở phần trên, về mặt kinh tế, cổ phiếu là một loại tài sản, về mặt pháp lí, cổ phiếu xác lập, chứng minh tư cách thành viên công ti của người sở hữu nó. Vì vậy, pháp luật các quốc gia đều có quy định về những nội dung được ghi trên cổ phiếu và được xem như ‘lí lịch” tư pháp của một loại tài sản. Luật Doanh nghiệp năm 2014 của Việt Nam quy định cổ phiếu phải có những nội dung chủ yếu: Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ti; số lượng cổ phần và loại cổ phần; mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu; họ tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, mã số doanh nghiệp hoặc quyết định thành lập, địa chỉ trụ sở chính của cổ đông là tổ chức; tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần; chữ ký của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty (nếu có); số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu; đối với cổ phiếu của cổ phần ưu đãi, các nội dung liên quan đến từng loại cổ phần ưu đãi cũng phải được thể hiện đầy đủ.
Pháp luật đã quy định hình thức và nội dung của cổ phiếu một cách cụ thể và rành mạch nhằm ghi nhận quyền lợi của người sở hữu nó, với tư cách là một quyền năng tuyệt đối.
Tuy nhiên, những sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu do công ty phát hành cũng không làm mất đi quyền và lợi ích của cổ đông. Trách nhiệm về các thiệt hại phát sinh do sai sót đó thuộc về người đại diện theo pháp luật của công ty.
Trường hợp cổ phiếu bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng dưới hình thức khác thì cổ đông sẽ được công ty cấp lại cổ phiếu theo đề nghị của cổ đông đó nhằm bảo vệ lợi ích cho cổ đông. Nếu không được cấp lại thì quyền lợi của cổ đông sẽ không thực hiện được, do đó pháp luật thường có những quy định về việc cấp lại cổ phiếu với một thủ tục chặt chẽ. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định, cổ đông muốn cấp lại cổ phiếu thì đề nghị công ty cấp lại. Đề nghị của cổ đông phải có những nội dung cam kết sau:
+ Cổ phiếu đã bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng dưới hình thức khác; trường hợp bị mất thì phải cam đoan rằng đã tìm kiếm hết mức và nếu tìm lại được sẽ đem trả công ti để tiêu huỷ.
+ Chịu trách nhiệm về những tranh chấp phát sinh từ việc cấp lại cổ phiếu mới.
Đối với cổ phiếu có tổng mệnh giá trên mười triệu Đồng Việt Nam, trước khi tiếp nhận đề nghị cấp cổ phiếu mới, người đại diện theo pháp luật của công ty có thể yêu cầu chủ sở hữu cổ phiếu đăng thông báo về việc cổ phiếu bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng dưới hình thức khác và sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng thông báo sẽ đề nghị công ti cấp cổ phiếu mới.
Những quy định của pháp luật về cổ phiếu như đã phân tích cho thấy cổ phiếu là vấn đề kinh tể, pháp lí rất quan trọng của CTCP và chính nó tạo ra sự khác biệt rất căn bản giữa CTCP với các hình thức công ti khác như công ti hợp danh, công ti TNHH. Vì vậy, vấn đề cổ phiếu được xem là vấn đề cốt lõi về pháp lí khi nghiên cứu về CTCP.
II- GÓP VỐN VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1- Góp vốn
Góp vốn có ý nghĩa quyết định tạo lập nên công ty, vì vậy, pháp luật phải can thiệp ngay từ giai đoạn “tiền công ty” và tạo thành chế định pháp luật quan trọng, là hạt nhân của pháp luật về công ty. Nội dung chế định pháp luật về vốn trong CTCP gồm những vấn đề chủ yếu như: vốn điều lệ, tài sản góp vốn, hình thức góp vốn, định giá tài sản góp vốn, thời hạn góp vốn, chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn, xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình góp vốn, cấp giấy chứng nhận góp vốn...
Công ty nói chung và CTCP nói riêng được hình thành trên cơ sở góp vốn (hay góp tài sản). CTCP có cách thức tạo lập vốn rất đặc biệt như đã trình bày ở trên, đó là phát hành cổ phiếu. Khi thành lập công ty, các sáng lập viên kêu gọi mọi người mua cổ phiếu.
Dựa trên cơ sở mệnh giá cổ phần, pháp luật xác định vốn điều lệ của CTCP.
Vốn điều lệ CTCP là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán các loại. Cổ phần đã bán là số cổ phần được quyền chào bán đã được các cổ đông thanh toán đủ cho công ty. Tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp, cổ phần đã bán là tổng số cổ phần các loại đã được đăng ký mua. Như vậy, vốn điều lệ của CTCP tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được ghi trong Điều lệ công ty. Việc đăng ký mua cổ phần chưa hình thành vốn của công ty, vốn của công ty chỉ thực sự hình thành khi các cổ đông đã thanh toán tiền mua cổ phần.
Bản chất của góp vốn xét dưới góc độ kinh tế là góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, phần vốn góp của các cổ đông trở thành tài sản của công ty. Nhờ đó mà công ty mới tiến hành được các hoạt động kinh doanh cũng như bảo đảm quyền lợi cho các đối tác của công ty.
Về phương diện pháp lý, góp vốn là nghĩa vụ pháp lý quan trọng nhất của các thành viên, khi các thành viên cam kết góp vốn là họ đã tự ràng buộc mình trở thành con nợ của công ty do chính họ tạo lập nên, và công ty là pháp nhân đã trở thành chủ nợ của chính người chủ của mình. Nếu một thành viên đã đăng ký góp vốn mà không góp hoặc góp không đủ, không đúng hạn thì công ty sẽ đòi. Việc góp chậm, thành viên phải trả lãi mà không cần phải có điều kiện là đã bị thúc nợ, và có thể phải bồi thường thiệt hại mà không cần phải chứng minh sự gian tình. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, và nếu Điều lệ công ty có quy định hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần có quy định khác thì cũng chỉ được quy định ngắn hơn 90 ngày.1 Bộ luật Dân sự Trung kỳ năm 1936 (Điều thứ 1437) quy định: “Mỗi hội viên đối với hội là người mắc nợ về phần mình đã góp, và phải góp ngay vào ngày hội thành lập, nếu không thời đương nhiên phải trả hoa lợi hay là tiền lời của phần mình cho hội, chiếu theo số tiền lời luật định, nếu phần góp ấy là một số tiền, và có khi phải bồi tổn hại nhiều vì lẽ góp chậm nữa”.
Từ phương diện pháp lý, hành vi góp vốn là hành vi chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty để đổi lấy quyền lợi công ty. về phương diện lý luận sở hữu, thì công ty là chủ sở hữu tài sản, còn các cổ đông là chủ sở hữu công ty. Các cổ đông cùng nhau khai thác công ty (đưa công ty vào hoạt động) để kiếm lời chia nhau. Hành vi góp vốn để đổi lấy quyền lợi từ công ty, khác với các hành vi mua bán tài sản, cho thuê tài sản. Nếu như hành vi bán tài sản, hay cho thuê tài sản thì người bán hay người cho thuê tài sản sẽ nhận được ngay số tiền bán hoặc tiền cho thuê tài sản khi chuyển giao tài sản đó. Còn hành vi góp vốn khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho công ty, thì người góp vốn sẽ nhận được “quyền lợi” từ công ty. Quyền lợi đó vừa có tính hữu hình vừa có tính vô hình và có thể chuyển đổi thành tiền, thông qua hoạt động của công ty bằng hình thức trả cổ tức, cùng với các quyền lợi khác như, quyền được tham gia quản lí công ti, quyền được biết thông tin về hoạt động của công ty...
Về hình thức góp vốn trong CTCP vẫn phải tuân theo các quy định chung về góp vốn được quy định trong Luật Doanh, nghiệp năm 2014.
“Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập”.
Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn.
Tài sản theo pháp luật Việt Nam được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự. Về phương diện kinh tế, tài sản là một khái niệm động, có tính mục đích sử dụng cao, và phải đáp ứng được nhu cầu của con người, nhất là nhu cầu sử dụng tài sản đó vào các hoạt động kinh doanh. Vì vậy mà ngày nay khi kinh tế phát triển người ta cố khuynh hướng mở rộng khái niệm tài sản.
Bộ luật Dân sự Quebec (Canada) quy định: “Tài sản, hoặc hữu hình hoặc vô hình, được chia thành bất động sản và động sản” (Điều 899). Bộ luật Dân sự tiểu Bang Louisiana (Hoa Kỳ) quy định: “Tài sản được phân chia thành tài sản chung, tài sản công và tài sản tư, tài sản hữu hình và tài sản vô hình” (Điều 448). Theo quan điểm của PGS.TS. Ngô Huy Cương thì “Xét từ giá trị kinh tế của tài sản, có thể nói tất cả các vật chất liệu và các quyền mà có thể khai thác mang lại giá trị kinh tế hay có thể trị giá được bằng tiền đều có thể được coi là tài sản dùng để góp vốn”. Xung quanh khái niệm tài sản có rất nhiều quan điểm khác nhau, phải chăng, ngoài yếu tố kinh tế, pháp lý, nó còn phụ thuộc vào phong tục tập quán, truyền thống, văn hoá, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ của mỗi quốc gia trong những giai đoạn phát triển cụ thể.
Theo quan niệm về tài sản của pháp luật Việt Nam, có thể chia tài sản góp vốn vào doanh nghiệp thành các loại sau:
- Góp vốn bằng tiền, bao gồm Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi. Đây là cách góp vốn phổ biến nhất và đơn giản nhất, người góp vốn chỉ việc bỏ tiền ra mua cổ phần của công ty theo mệnh giá do công ty phát ra. Có nghĩa là bỏ tiền ra để mua quyền lợi công ty.
- Góp vốn bằng tài sản hiện vật, thực chất là góp vốn bằng quyền sở hữu đối với vật đó. Vật đó có thể là bất động sản hữu hình hoặc động sản hữu hình, ví dụ như góp vốn bằng ngôi nhà, góp vốn bằng máy móc, thiết bị... hình thức góp vốn này xét về mặt hình thức giống như bán hay đổi vật để lấy quyền lợi công ty, theo logic của quan hệ này thì công ty sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản bằng hiện vật đó còn cổ đông sẽ thu được quyền lợi từ công ty. Việc góp vốn bằng tài sản hiện vật có phần phức tạp hơn là góp bằng tiền, vì phải tiền tệ hoá các vật đó.
- Góp vốn bằng quyền tài sản. Việc góp vốn bằng quyền tài sản sẽ rất phức tạp không chỉ vì khó trong việc tính toán định trị giá của nó bởi đây là loại tài sản vô hình mà còn phức tạp trong việc phân loại quyền. Điều đó cắt nghĩa tại sao ở nước ta trong thực tế góp vốn bằng quyền tài sản để thành lập công ty rất hạn chế. Quyền tài sản theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp năm 2014 được quy định cụ thể tại Điều 35 gồm: Giá trị quyền sử dụng đất; Giá trị quyền sở hữu trí tuệ.
- Góp vốn bằng tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam. Tài sản khác là loại tài sản gì? Có lẽ đó là những loại tài sản không thuộc những tài sản kể trên và phải được phép lưu thông. Đây là quy định mở, phải chăng đó là “khả năng” của cá nhân về một lĩnh vực nào đó mà công ty có nhu cầu cũng được coi là tài sản để góp vào công ty để đổi lấy quyền lợi công ty. Như vậy trong thực tiễn có thể góp vốn bằng: Tri thức, góp vốn bằng công việc...
Pháp luật quy định tài sản dùng để góp vốn vào công ty, song góp vốn bằng loại tài sản nào, cách thức góp như thế nào, còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể trong các hợp đồng thành lập công ty.
Định giá tài sản góp vốn
Về nguyên tắc, những tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được mang ra định giá. Song tài sản mang ra định giá còn phải được các thành viên và cổ đông sáng lập chấp nhận là tài sản góp vốn. Bởi lẽ, về phương diện pháp lý, có thể tài sản đó pháp luật không cấm góp vốn, song về kinh tế, công ty lại không có nhu cầu sử dụng tài sản đó thì sao? Điều đó tuỳ thuộc vào nhu cầu của từng công ty.
Việc định giá tài sản góp vốn phải theo nguyên tắc nhất trí, trường hợp việc định giá do tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá thì phải được đa số các thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận. Hậu quả pháp lý trong trường hợp tài sản mang ra định giá không đạt được sự nhất trí về giá sẽ khó trở thành tài sản góp vốn.
Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập phải chịu trách nhiệm bằng cách cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời phải cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.
Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do công ty và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn vào công ty chấp thuận. Nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì sẽ dẫn đến hậu quả là người góp vốn vào công ty (hội đồng quản trị) cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá, đồng thời, liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do việc cố ý định giá tài sản cao hơn giá trị thực tế.
Định giá tài sản góp vốn có ý nghĩa quan trọng bởi mục đích, của định giá trước tiên là xác định giá trị vốn góp của cổ đông, qua đó bảo đảm quyền lợi của cổ đông trong công ty, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng giữa các cổ đông, sau đó, việc định giá sẽ xác định đúng giá trị tài sản của công ty, bảo vệ quyền lợi cho các đối tác của công ty. Pháp luật của nhiều nước trên thế giới còn quy định, cổ đông có tài sản góp vốn phải định giá không được tham gia biểu quyết việc định giá, họ chỉ được giải thích về những vấn đề có liên quan đến tài sản định giá. Riêng đối với CTCP, thì những người tham gia định giá còn không phải chịu trách nhiệm trước các đối tác của công ty, trừ khi họ có hành vi gian trá hoặc giá trị tài sản định giá có sự sai lệch quá mức.
Sau khi định giá tài sản thành một giá trị được tính bằng Đồng Việt Nam, sẽ được quy đổi thành số cổ phần cho các cổ đông mà họ đã đăng kí mua, tức là thanh toán tiền mua cổ phần.
Thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi thành lập công ty
Như đã trình bày, việc đăng ký mua cổ phần chưa hình thành vốn của công ty, vốn của công ty chỉ thực sự hình thành khi các cổ đông đã thanh toán tiền mua cổ phần. Vì vậy, pháp luật phải quy định rõ thời hạn thanh toán, trách nhiệm đôn đốc giám sát việc thanh toán và các giải pháp xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến việc thanh toán mua cổ phần.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định việc thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi thành lập công ty như sau:
- Các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn ngắn hơn. Việc giám sát, đôn đốc thanh toán đủ, đúng hạn các cổ phần mà cổ đông đăng kí mua thuộc trách nhiệm của Hội đồng quản trị công ty.
- Trong thời hạn từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định, số phiếu biểu quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.
Nếu sau thời hạn quy định, có cổ đông chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một phần số cổ phần đã đăng ký mua thì thực hiện theo quy định sau:
+ Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác;
+ Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác;
+ Số cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán;
+ Công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua theo quy định của pháp luật.
- Cổ đông chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua phải chịu trách nhiệm tương ứng với từng giá trị mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn quy định (khoản 1 Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Thành viên Hội đồng quản trị, người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới về các thiệt hại phát sinh do không thực hiện hoặc không thực hiện đúng quy định pháp luật về vấn đề này.
2- Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn
CTCP là một pháp nhân, bản tính của pháp nhân là có tài sản độc lập với tài sản của các thành viên đã tạo lập nên pháp nhân đó, hay còn gọi là nguyên tắc tách bạch tài sản. Hành vi góp vốn của các cổ đông chính là hành vi tạo lập nên pháp nhân - công ty. Vì vậy, các thành viên góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty. Việc góp vốn có thể được thực hiện bằng các loại tài sản khác nhau, do đó việc chuyển quyền sở hữu tài sản cũng phải theo các quy chế pháp lý khác nhau tương ứng với từng loại tài sản. Ví dụ như góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất sẽ có những quy định riêng khác với góp vốn bằng máy móc, thiết bị hay góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ cũng sẽ có những quy định đặc thù. Vấn đề chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty để trở thành cổ đông của công ty để được hưởng quyền lợi từ công ty sẽ phức tạp và có độ rủi ro cao, bởi công ty là một thực thể nhân tạo, chưa ổn định, đang trong quá trình thành lập. Vì vậy, pháp luật phải có những quy định cụ thể, riêng biệt về mặt thủ tục cũng như cách thức chuyển giao quyền sở hữu đối với các loại tài sản theo các quy định pháp luật về sở hữu. Chức năng của Luật Doanh nghiệp là tạo lập doanh nghiệp để gia nhập thị trường, vì vậy, Luật Doanh nghiệp sẽ chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về chuyển quyền sở hữu tài sản từ người góp tài sản sang cho công ty, trong đó có phân loại tài sản phải làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản là vật (không phải bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng).
Những quy định mang tính nguyên tắc chung về chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định như sau:
- Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản không phải nộp thuế trước bạ.
- Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số thẻ căn cước công dân, giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác; số quyết định thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỉ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo uỷ quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty.
- Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là Đồng Việt nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty.
- Đối với nhà đầu tư nước ngoài thì việc thanh toán mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng cổ phần và phần vốn góp và nhận cổ tức đều phải được thực hiện thông qua tài khoản vốn của nhà đầu tư đó mở tại ngân hàng ở Việt Nam, trừ trường hợp thanh toán bằng séc.
III- HUY ĐỘNG VỐN, CHUYỂN NHƯỢNG VÀ MUA LẠI VỐN GÓP
Một trong những thuộc tính quan trọng của CTCP là công khai huy động vốn và sự mềm dẻo trong việc sử dụng vốn để tạo lập ra các nguồn vốn khổng lồ đầu tư vào các dự án có quy mô lớn.
1- Huy động vốn
Huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh là vấn đề tất yếu của các công ty, là quyền của công ty thuộc phạm trù tự do kinh doanh của công ty. Khái niệm huy động vốn được sử dụng ở đây là khi công ty đã hoạt động và trong quá trình hoạt động, để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, công ty phải huy động thêm vốn, việc huy động vốn có thể huy động từ nội bộ công ty, cũng có thể huy động từ ngoài xã hội (trường hợp này khác với huy động vốn khi thành lập - huy động vốn khi thành lập được gọi là góp vốn). Tuy nhiên, việc huy động vốn sẽ làm phát sinh hàng loạt những vấn đề pháp lý cần phải giải quyết như: đảm bảo các nghĩa vụ phát sinh từ việc huy động vốn, quyền lợi của nhà đầu tư (góp vốn hoặc cho vay), những rủi ro khi huy động vốn... Vì vậy, mỗi loại hình doanh nghiệp có cách thức, hình thức huy động vốn khác nhau, điều đó phụ thuộc vào cách thức tổ chức, tính chất của từng loại hình doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, pháp luật quy định về cách thức, hình thức huy động vốn phù hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp nhằm đảm bảo an toàn pháp lý tài chính cho doanh nghiệp cũng như các đối tác của doanh nghiệp. Với đặc điểm về tính chất đối vốn, về cổ phần cũng như về tổ chức hoạt động... CTCP có hai lợi thế cơ bản để huy động vốn, đó là: Công ty được công khai bán cổ phiếu ra công chúng và được vay vốn trong công chúng bằng phát hành trái phiếu. Lợi thế đó đã tạo cho CTCP khả năng huy động vốn rộng rãi và linh hoạt nhất, mà không một loại hình công ti nào có được.
Xét dưới góc độ kinh tế thì: vốn kinh doanh (chủ yếu) = vốn điều lệ + vốn vay. Vì vậy, huy động vốn của công ty hoặc là để tăng vốn điều lệ đáp ứng nhu cầu kinh doanh hoặc giữ nguyên vốn điều lệ nhưng vẫn đảm bảo vốn cho kinh doanh bằng cách đi vay. CTCP huy động vốn cũng bằng hai cách đó.
Thứ nhất, huy động vốn để tăng vốn điều lệ
Như đã trình bày, vốn điều lệ của CTCP tại thời điểm đăng ký thành lập là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và ghi vào điều lệ công ty. Như vậy, cổ phần do công ty phát hành lần đầu là để tạo vốn điều lệ. Khi công ty đã đi vào hoạt động, do có nhu cầu vốn để kinh doanh, công ty muốn tăng vốn điều lệ, điều đó sẽ được thực hiện bằng cách chào bán cổ phần. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Chào bán cổ phần là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán cố phần đó trong quá trình hoạt động để tăng vốn điều lệ”. Sau khi hoàn thành đợt bán cổ phần, công ty thực hiện việc đăng ký thay đổi vốn điều lệ trong thời hạn luật định (10 ngày).
Việc chào bán cổ phần có thể được thực hiện theo một trong các hình thức sau:
(i) Chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu
Đây chính là trường hợp công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán toàn bộ số cổ phần đó cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty. Cách huy động vốn này không làm tăng số lượng cổ đông của công ty song vẫn làm tăng vốn điều lệ. Phải chăng đó là chính sách ưu tiên của công ty dành cho những người đã gắn bó với công ty. Huy động vốn bằng hình thức này gọi là huy động vốn từ trong nội bộ công ty.
Trường hợp CTCP không phải là CTCP đại chúng, thì việc chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu được thực hiện như sau:
+ Trước hết, công ty phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo cách thức phải đảm bảo rằng, họ sẽ nhận được thông báo đó chậm nhất là 15 ngày trước ngày kết thúc thời hạn đăng ký mua cổ phần.
+ Thông báo phải phải thể hiện rõ ràng và đầy đủ các thông tin cá nhân như họ, tên, địa chỉ thường trú, số thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu... nếu cổ đông là tổ chức phải thì trong thông báo phải có tên, mã số doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập, địa chỉ trụ sở chính. Trong thông báo phải nói rõ số cổ phần và tỷ lệ cổ phần hiện có của cổ đông tại công ty; tổng số cổ phần dự kiến chào bán và số cổ phần cổ đông được quyền mua; giá chào bán cổ phần; thời hạn đăng ký mua... trường hợp phiếu đăng ký mua cổ phần không được gửi về công ty đúng hạn như thông báo thì cổ đông có liên quan coi như đã không nhận được quyền ưu tiên mua.
Cổ đông có quyền chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần cho người khác.
Nếu số lượng cổ phần dự kiến chào bán không được cổ đông và người nhận chuyển quyền ưu tiên mua hết thì Hội đồng quản trị có quyền bán số cổ phần được quyền chào bán còn lại đó cho cổ đông của công ty hoặc người khác, cổ phần coi là đã bán xong khi được thanh toán đủ và những thông tin về người mua được quy định trong sổ đăng ký cổ đông được ghi đầy đủ.[XI] Sau khi cổ phần được thanh toán đầy đủ, công ty phải phát hành và trao cổ phiếu cho người mua.
(ii) Chào bán cổ phần ra công chúng
Chào bán cổ phần ra công chúng, chào bán cổ phần của CTCP niêm yết và đại chúng thực hiện theo Luật Chứng khoán. Đây là hình thức huy động vốn từ bên ngoài, một cách rộng rãi, hình thức huy động vốn này vừa làm tăng vốn điều lệ đồng thời cũng làm tăng số lượng cổ đông của công ty. Do tính chất đặc biệt của hình thức huy động vốn này (tính công chúng) nên phải có những quy định pháp lí riêng và đặc thù đó là Luật Chứng khoán.
(iii) Chào bán cổ phần riêng lẻ
Đây cũng là hình thức huy động vốn từ bên ngoài công ti nhưng mang tính riêng lẻ, dành cho CTCP không phải là công ti đại chúng.
Theo quy định của Luật Chứng khoán thì công ty đại chúng là CTCP thuộc một trong ba loại: i) Công ty đã thực hiện việc chào bán cổ phiếu ra công chúng; ii) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán và iii) Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên.
CTCP không phải là công ty đại chúng thực hiện việc chào bán cổ phần, được tiến hành như sau:
+ Công ty phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc chào bán cổ phần, trong thời hạn do luật định. Kèm theo thông báo phải có các tài liệu như Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông về chào bán cổ phần riêng lẻ, phương án chào bán cổ phần riêng lẻ.
+ Thông báo việc chào bán cổ phần riêng lẻ, phải có các nội dung cần thiết theo luật định để đảm bảo tính thông tin, tính pháp lý của thông báo.
+ Trong thời hạn luật định (5 ngày) kể từ ngày gửi thông báo mà không nhận được ý kiến phản hồi của cơ quan đăng ký kinh doanh, thì công ty có quyền bán.
Công ty thực hiện việc thay đổi vốn điều lệ với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn luật định (10 ngày) kể từ ngày hoàn thành đợt bán cổ phần.
Thứ hai, huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán, do CTCP phát hành để vay tiền nhằm đáp ứng vốn cho kinh doanh. Bản chất của phát hành trái phiếu là hành vi đi vay. Khi công ty thực hiện hành vi phát hành trái phiếu, công ty đã trở thành người thụ trái, người nào mua trái phiếu sẽ trở thành trái chủ của công ty. Trái phiếu có nhiều loại, CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
Huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu là hình thức huy động vốn (vay tiền) trong công chúng, vì vậy, khả năng huy động vốn là rất lớn, điều đó một mặt tạo thuận lợi tài chính cho công ty, nhưng mặt khác cũng tạo ra nhiều rủi ro cho người mua trái phiếu, chẳng hạn khả năng thanh toán có đảm bảo không?... Vì vậy, pháp luật có những quy định chặt chẽ về phát hành trái phiếu (xem Giáo trình Luật Chứng khoán, trong Giáo trình này chỉ trình bày vấn đề này ở góc độ là quyền huy động vốn của CTCP). Việc phát hành trái phiếu là quyền của CTCP, song không có nghĩa là công ty có thể tuỳ ý phát hành trái phiếu một cách tuỳ tiện. Khi nghiên cứu việc phát hành trái phiếu của CTCP theo Luật Doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề cơ bản như: (i) Điều kiện để công ty cổ phần phát hành trái phiếu; (ii) Cơ quan nào trong công ty cổ phần có quyền quyết định loại trái phiếu, tổng giá trị trái phiếu và thời điểm phát hành; (iii) Thủ tục phát hành trái phiếu chuyển đổi...
2- Chuyển nhượng và mua lại vốn góp
a, Chuyển nhượng vốn góp
Như đã trình bày, cổ phần là phần vốn điều lệ của công ty, người sở hữu cổ phần là cổ đông của công ty, cổ phần không xác định thời hạn, nó luôn tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty. Vì vậy, một cổ đông muốn ra khỏi công ty chỉ bằng cách chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần của mình cho người khác. Hoặc một cổ đông nào đó chỉ chuyển nhượng một số cổ phần mà họ sở hữu cũng được, ví dụ một cổ đông sở hữu một triệu cổ phần nay họ bán đi năm trăm nghìn cổ phần, chỉ còn giữ lại năm trăm nghìn cổ phần. Việc chuyển nhượng cổ phần được thực hiện tự do, trừ một số trường hợp pháp luật hay điều lệ công ti có quy định khác. Điều này xuất phát từ bản chất của CTCP.
Cách thức chuyển nhượng cổ phần có thể được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nếu chuyển nhượng bằng hợp đồng thì các bên tham gia việc chuyển nhượng sẽ tuân thủ theo quy định của pháp luật họp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự. Còn khi chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, thì trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của Luật Chứng khoán.
Tính tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông làm cho cổ đông trong CTCP luôn thay đổi, song tài sản trong công ti vẫn ổn định đảm bảo cho hoạt động bình thường của công ti. Có thể khẳng định rằng, nhờ có tính tự do vận động của cổ phần đã làm phát sinh (ra đời) thị trường chứng khoán.
b, Mua lại vốn góp
Mua lại vốn góp trong CTCP gồm: Mua lại vốn góp theo yêu cầu của cổ đông và mua lại vốn góp theo quyết định của công ty.
- Mua lại vốn góp theo yêu cầu của cổ đông
Khái niệm mua lại vốn góp theo yêu cầu của cổ đông trong CTCP phát sinh khi nội bộ công ty có những sự kiện pháp lý nhất định, nó hoàn toàn khác với khái niệm chuyển nhượng vốn góp mặc dù hai hiện tượng này có điểm giống nhau ở chỗ là đã có một cổ đông nào đó rời khỏi công ty. Chuyển nhượng vốn góp là chuyển quyền sở hữu cổ phần từ cổ đông này sang cổ đông khác, không làm thay đổi vốn điều lệ của công ty, cổ đông chuyển nhượng sẽ ra khỏi công ty (nếu họ bán hết số cổ phần mà họ sở hữu), người nhận chuyển nhượng sẽ trở thành cổ đông của công ty. Hơn nữa, việc chuyển nhượng chỉ là quyền của cổ đông, quyền đó có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào việc có ai nhận chuyển nhượng số cổ phần đó hay không. Còn mua lại vốn góp thì sẽ có cổ đông rời khỏi công ty nhưng không có cổ đông thế chân, vì người thế chân lại là bản thân công ty, trong trường hợp mua lại vốn góp, có thể sẽ làm giảm vốn Điều lệ công ty. Mua lại vốn góp chỉ phát sinh khi có sự kiện pháp lý nhất định, sự kiện đó là: khi cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại điều lệ công ty. Nghĩa là cổ đông đó cho rằng những thay đổi đó ảnh hưởng đến quyền lợi của họ và họ không muốn chung sống cùng công ty. Trong trường hợp này pháp luật dành cho họ được quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình và công ty phải mua. Quy định này nhằm giải thoát cho những cổ đông bất đồng quan điểm với công ty về những vấn đề đã nêu. Nếu không có giải pháp này, cổ đông đó sẽ tìm cách ra khỏi công ty bằng cách thông thường là chuyển nhượng vốn góp cho người khác. Song việc chuyển nhượng vốn góp phải tìm được người nhận chuyển nhượng (người mua), giả sử không tìm được người mua hoặc tìm được song không thống nhất được giá cả... thì cổ đông đó sẽ vẫn phải chung sống cùng công ty. Điều này sẽ gây ra những mâu thuẫn từ trong nội bộ công ty, ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, bởi suy cho cùng thì bản chất của công ty chính là “HỘI”, CTCP thực chất là “hội vốn”. Mà đã là hội thì phải “sống chết có nhau” lẽ nào lại chia rẽ. Dân gian có câu “cùng hội cùng thuyền” thật rất đúng với công ty.
Mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông đặt ra những vấn đề pháp lý căn bản phải giải quyết, đó là:
+ Điều kiện để cổ đông có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần;
+ Thủ tục yêu cầu, thời hạn gửi yêu cầu;
+ Giá trị pháp lý của yêu cầu, thời hạn công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu, giá mua, xử lý những vấn đề phát sinh khi không thỏa thuận được giá mua.
- Mua lại vốn góp theo quyết định của công ty
Mua lại vốn góp theo quyết định của công ty, xét ở góc độ kinh tế là biện pháp bảo đảm vốn cho công ty, ở góc độ pháp lý là quyền của công ty, nghĩa là công ty dành quyền mua cổ phần về tay mình khi cần thiết vì lợi ích công ty. Quyền được mua do luật định với một tỉ lệ nhất định đối với cổ phần phổ thông đã bán, riêng đối với cổ phần ưu đãi thì chỉ có cổ phần ưu đãi cổ tức mới có quyền mua một phần hoặc toàn bộ cổ phần đã bán. Còn cụ thể mua như thế nào, luật dành cho Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông công ty quyết định. Ví dụ, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: ‘"Công tỉ có quyền mua lại không quá 30% tổng số cổ phần phổ thông đã bán, một phần hoặc toàn bộ cổ phần ưu đãi cổ tức đã bán theo quy định sau: i, Hội đồng quản trị có quyền quyết định mua lại không quá 10% tổng số cổ phần của từng loại đã được chào bán trong 12 tháng. Trường hợp khác, việc mua lại cổ phần do Đại hội đồng cổ đông quyết định... ”.
Công ty cũng có thể mua lại cổ phần của từng cổ đông tương ứng với tỷ lệ cổ phần của họ trong công ty. Đây là trường hợp mua lại cổ phần theo ý chí của công ty và cổ đông, có bản chất pháp lý khác hẳn với trường hợp mua cổ phần theo yêu cầu của cổ đông. Thủ tục mua lại cổ phần trong trường hợp này có hai vấn đề pháp lý: Quyết định mua lại cổ phần của công ty phải được thông báo đến tất cả cổ đông trong thời hạn luật định và phải đảm bảo những thông tin cần thiết như tổng số cổ phần và loại cổ phần được mua lại, nguyên tắc định giá mua lại, thủ tục và thời hạn thanh toán... cổ đông đồng ý bán lại cổ phần cũng phải gửi thông báo việc bán cổ phần đến công ty trong thời gian luật định. Thông báo chào bán cũng phải có những thông tin cần thiết như số cổ phần sở hữu, số cổ phần chào bán, phương thức thanh toán...
Công ty chỉ mua lại cổ phần được chào bán trong thời hạn như đã thông báo. Việc này hoàn toàn là hợp đồng mua bán giữa công ty với cổ đông.
Mua lại cổ phần dù là theo yêu cầu của cổ đông hay theo quyết định của công ty đều dẫn đến hệ quả là công ty phải lấy tiền của công ty để thanh toán. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới sự an toàn pháp lý về tài chính trong công ty. Vì vậy, pháp luật phải đặt ra các điều kiện thanh toán và xử lý các cổ phần được mua lại theo nguyên tắc phải đảm bảo các nghĩa vụ trả nợ. Luật Doanh nghiệp quy định điều kiện thanh toán như sau: Công ty chỉ được quyền thanh toán cổ phần được mua lại cho cổ đông (mua lại theo yêu cầu của cổ đông và mua lại theo quyết định của công ty) nếu sau khi thanh toán hết số cổ phần được mua lại, công ty vẫn đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác.
Việc xử lý các cổ phần mua lại được pháp luật quy định cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích cho công ty. Có một số vấn đề pháp lý liên quan đến cổ phần mua lại phải xử lý theo quy định, đó là:
+ Cổ phần mua lại (theo yêu cầu của cổ đông và theo quyết định của công ty) sẽ được coi là cổ phần chưa bán (là cổ phần được quyền chào bán và chưa được thanh toán);
+ Công ty phải làm thủ tục điều chỉnh giảm vốn điều lệ tương ứng với tổng giá trị các cổ phần được công ty mua lại trong thời hạn luật định;
+ Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại phải được tiêu hủy ngay khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ. '
+ Nếu có thiệt hại phát sinh cho công ty, do không tiêu huỷ hoặc chậm tiêu huỷ cổ phiếu thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải liên đới chịu trách nhiệm;
+ Sau khi thanh toán hết số cổ phần mua lại, nếu tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty giảm hơn 10% thì công ty phải thông báo cho tất cả các chủ nợ biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thanh toán hết số cổ phần mua lại (quy định cảnh báo).
Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Thương mại 1 - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm