Các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp

22/10/2024
Phạm Gia Minh
Phạm Gia Minh
Việc nhận một đứa trẻ làm con nuôi, gắn bó với đứa trẻ trong quan hệ cha mẹ và con lâu dài, ổn định, hình thành một gia đình đầy đủ đối với trẻ được thực hiện một cách khá phổ biến, đem lại cho đứa trẻ sự chăm sóc, nuôi dưỡng tốt nhất và môi trường an toàn cho trẻ. Tuy nhiên, để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho trẻ em được nhận nuôi, của người nhận nuôi và một số đối tượng khác, pháp luật Việt Nam đã quy định về các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp.

1- Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, người được nhận làm con nuôi là người dưới 16 tuổi. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004Luật Trẻ em năm 2016 quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Trẻ em là đối tượng cần được quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng thông qua việc nuôi con nuôi khi các em không có gia đình nuôi dưỡng.

Về nguyên tắc, người được nhận làm con nuôi là trẻ em. Tuy nhiên trong một số trường hợp, để đảm bảo duy trì các mối liên hệ huyết thống trong gia đình, Khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng được nhận làm con nuôi trong các trường hợp sau:

- Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

- Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

Người được nhận làm con nuôi chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng. Pháp luật không thừa nhận việc nhận nuôi con nuôi chung giữa hai người không có quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong trường hợp người nhận nuôi con nuôi đang có vợ hoặc có chồng thì việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý, thống nhất của cả hai vợ chồng và đứa trẻ được nhận nuôi là con nuôi chung của cả hai vợ chồng.

Ngoài quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi, pháp luật không quy định cụ thể về hoàn cảnh gia đình của trẻ em cần được giải quyết cho làm con nuôi. Có thể thấy rằng, việc cho trẻ em làm con nuôi người khác là cần thiết và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em nếu trẻ em không thể được nuôi dưỡng trong gia đình. Vì vậy, việc quy định rõ hoàn cảnh gia đình của trẻ em cần tìm gia đình thay thế phải được coi là một điều kiện cần thiết đối với người được nhận nuôi để tránh lợi dụng cho trẻ em làm con nuôi nhằm những mục đích vụ lợi khác.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest

2- Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, người nhận nuôi con nuôi phải có đủ các điều kiện sau:

- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Cụ thể, là người theo quy định của pháp luật dân sự đạt độ tuổi nhất định, tức là từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Đây là quy định về độ tuổi chênh lệch tối thiểu giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi. 

- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. 

- Có tư cách đạo đức tốt. Tư cách đạo đức của người nhận nuôi con nuôi là yếu tố quan trọng trong việc tạo dựng môi trường gia đình an toàn, lành mạnh, đảm bảo sự phát triển tốt về thể chất, nhân cách của con nuôi.

Trong trường hợp vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì cả hai vợ chồng đều phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện của người nhận nuôi nêu trên.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, trong trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi thì không bắt buộc phải tuân thủ đầy đủ quy định về khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi, cũng như các điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở của người nhận nuôi. Tuy nhiên quy định này tỏ ra chưa chặt chẽ và chưa phù hợp với thực tế cuộc sống. Trong những trường hợp này, nếu người nhận nuôi con nuôi chỉ hơn người được nhận làm con nuôi một vài tuổi (ví dụ, cô ruột vừa đủ 18 tuổi nhận cháu dưới 18 tuổi làm con nuôi) thì khả năng thực hiện quyền làm cha mẹ đối với con nuôi là không khả thi, không phù hợp với thực tế cuộc sống.

Bên cạnh việc quy định các điều kiện của người nhận nuôi, Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng quy định những người không đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi. Đó là những người sau:

- Người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

- Người đang chấp hành hình phạt tù;

- Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Để đảm bảo các điều kiện trên, trong hồ sơ của người nhận con nuôi phải có Phiếu lí lịch tư pháp; Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận nuôi do ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó thường trú cấp.

Xem thêm: Dịch vụ trợ lý pháp lý thuê ngoài của Công ty Luật TNHH Everest

3- Điều kiện về ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi

Việc nuôi con nuôi luôn liên quan đến các bên chủ thể là người có quyền cho trẻ em làm con nuôi, người nhận nuôi và chính bản thân trẻ em được nhận nuôi khi đạt độ tuổi nhất định. Pháp luật đòi hỏi những người này phải thể hiện ý chí một cách công khai, minh bạch trong việc cho nhận con nuôi tùy theo khả năng nhận thức và năng lực hành vi của mỗi người.

[a] Ý chí của cha mẹ đẻ, người giám hộ

Ý chí của cha mẹ đẻ về việc cho con làm con nuôi phải trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị tác động, dụ dỗ, mua chuộc, lừa dối, cưỡng ép, không kèm theo bất cứ yêu cầu trả tiền hay bồi thường nào. Trong trường hợp cha mẹ đẻ đều còn sống và có năng lực hành vi dân sự thì việc cho con làm con nuôi phải có sự đồng ý của cả cha đẻ, mẹ đẻ. Nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải có sự đồng ý của người còn lại. Nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải có sự đồng ý của người giám hộ của trẻ.

Khoản 4 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 còn quy định: “Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày”. Quy định này là một nội dung tiếp cận Công ước La Hay 1993, nhằm đảm bảo cho cha mẹ đẻ của trẻ có thời gian cân nhắc, suy nghĩ kĩ trước khi cho trẻ làm con nuôi người khác. Thời gian tối thiểu là 15 ngày sau khi đứa trẻ được sinh ra, được sống trong sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha đẻ, mẹ đẻ, qua đó tình cảm giữa cha mẹ đẻ và con được thiết lập sẽ tạo cơ hội cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong gia đình gốc mà không bị cho đi làm con nuôi.

Ý chí của cha mẹ đẻ trong việc cho con làm con nuôi còn thể hiện ở chỗ cha mẹ đẻ có quyền rút lại sự đồng ý cho trẻ làm con nuôi trong thời hạn 15 ngày (đối với việc nuôi con nuôi trong nước) hoặc 30 ngày (đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài) kế từ ngày được lấy ý kiến.

[b] Ý chí của người nhận nuôi

Người nhận nuôi con nuôi thể hiện ý chí mong muốn nhận trẻ em làm con nuôi thông qua đơn xin nhận con nuôi. Trong đơn xin nhận con nuôi, người nhận nuôi có thế xin đích danh trẻ em muốn nhận nuôi hoặc nêu những đặc điếm về trẻ em muốn nhận nuôi. Việc nhận nuôi con nuôi phải nhằm mục đích thiết lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững với trẻ.

[c] Ý chí của trẻ em được nhận nuôi

Sự thể hiện ý chí của trẻ em được nhận nuôi chỉ đặt ra khi trẻ em đạt đến một độ tuổi nhất định, có đủ khả năng nhận thức và quyết định các vấn đề có liên quan trực tiếp đến bản thân mình. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, trong trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Quy định này nhằm đảm bảo quyền bày tỏ ý kiến, quyền tham gia của trẻ em được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Luật Trẻ em.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest

4- Đăng ký việc nuôi con nuôi

Việc nhận nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ được nhận nuôi và cả người nhận nuôi vì xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên, hình thành một gia đình cho đứa trẻ. Do đó sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc nuôi con nuôi là bắt buộc để việc nuôi con nuôi có hiệu lực pháp lý.

Theo quy định tại Điều 22 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, khi xét thấy người nhận nuôi con nuôi và người được nhận nuôi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức đăng kí nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người có liên quan trong việc cho, nhận con nuôi.

Trong trường hợp ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng kí việc nuôi con nuôi thì phải trả lời bằng văn bản cho các bên đương sự có liên quan và nêu rõ lí do từ chối.

Đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, việc thẩm định hồ sơ của người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi do Cục Con nuôi - Bộ Tư pháp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 34 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 Điều 18 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi. Việc kiểm tra, xác minh điều kiện của trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài thuộc trách nhiệm của Sở Tư pháp theo quy định tại Điều 33 Luật Nuôi con nuôi năm 2010Điều 16 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Nếu xét thấy các bên đáp ứng đầy đủ các điều kiện của người nhận nuôi và người được nhận nuôi theo quy định của pháp luật thì Sở Tư pháp trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.

Trên cơ sở quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp thông báo cho người nhận nuôi đến Việt Nam để nhận con nuôi. Khi người nhận con nuôi có mặt tại Việt Nam, Sở Tư pháp tiến hành đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch và tổ chức lễ giao nhận con nuôi.

Đối với trường hợp nhận nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với công dân của nước láng giềng cùng thường trú ở khu vực biên giới thì thủ tục đăng kí việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 21 và Điều 22 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Theo đó, người nước ngoài thường trú ở khu vực biên giới nước láng giềng với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới của Việt Nam làm con nuôi phải làm hồ sơ xin nhận con nuôi nộp cho ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của trẻ em được nhận nuôi, ủy ban nhân dân cấp xã kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của những người có liên quan và có văn bản gửi Sở Tư pháp kèm theo 01 bộ hồ sơ của người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi để xin ý kiến. Sau khi có sự đồng ý của Sở Tư pháp, ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành đăng kí việc nuôi con nuôi và giao nhận con nuôi theo thủ tục chung.

Trong trường hợp công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới nhận trẻ em của nước láng giềng cư trú ở khu vực biên giới của nước đó làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và các điều kiện của nguời nhận nuôi theo quy định của pháp luật nuớc láng giềng. Hồ sơ của nguời nhận nuôi đuợc gửi cho Sở Tư pháp để kiểm tra và xác nhận nếu nguời đó đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi. Sau khi đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền của nuớc láng giềng, nguời nhận nuôi con nuôi phải làm thủ tục ghi chú việc nuôi con nuôi tại ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của người đó.

Như vậy, việc nuôi con nuôi chỉ có giá trị pháp lý khi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và con nuôi phát sinh kể từ thời điểm đăng ký.

Theo quy định tại Điều 50 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, trong trường hợp việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau phát sinh trước ngày 01/01/2011 mà chưa đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực (ngày 01/01/2011), nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:

- Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;

- Đển thời điểm Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;

- Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.

Sau khi được đăng ký, quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về thừa kế (luật sư thừa kế) của Công ty Luật TNHH Everest

5- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.59189 sec| 1008.984 kb