Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật miền Nam giai đoạn 1954-1975
1- Chế độ tài sản và sự dân luật hoá của chính quyền Nguỵ Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước ta vẫn tạm thời bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ chính trị khác biệt. Miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở miền Nam, sau năm 1954, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn này thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Về vấn đề pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình trong giai đoạn này ở miền Nam, chế độ Ngụy quyền Sài Gòn (theo thời gian) đã cho ban hành và áp dụng ba văn bản pháp luật:
- Luật Gia đình ngày 02/01/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm gồm 135 điều chia làm bốn thiên.
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh, quy định Về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng, sắc luật gồm ba chương và 158 điều.
- Bộ luật Dân sự ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật này đều có khuynh hướng “dân luật hóa” các quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng, mặc dù lĩnh vực hôn nhân và gia đình được quy định riêng trong hai văn bản Luật Gia đình số 1-59 ngày 02/01/1959 và Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964, trong Bộ luật Dân sự ngày 20/12/1972, các quan hệ hôn nhân và gia đình được quy đ1nh như là chế định của Bộ luật Dân sự từ thiên thứ V, VI, VII, VIII. Về chế độ tài sản của vợ chồng (Luật Gia đình năm 1959 quy định trong Chương II từ Điều 45 đến Điều 54; sắc luật số 15/64 quy định ở tiết 6 của Chương I từ Điều 49 đến Điều 61; Bộ luật Dân sự quy định tại chương thứ VI, thiên thứ V, từ Điều 144 đến Điều 169). Cả ba văn bản luật này đều dự liệu Về chế độ tài sản ước định (hôn ước), cho phép vợ chồng kí kết với nhau một hôn ước thoả thuận Về vấn đề tài sản từ trước khi kết hôn, miễn là sự thoả thuận bằng hôn ước đó không trái với trật tự công cộng, thuần phong mĩ tục và quyền lợi của con cái (Điều 45 Luật Gia đình năm 1959; Điều 49 sắc luật số 15/64 và Điều 144, 145 Bộ luật Dân sự năm 1972). Trong trường hợp hai vợ chồng không lập hôn ước với nhau Về tài sản thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định). Cả ba văn bản luật này cũng đều dự liệu chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật, tuy nhiên, có sự khác nhau Về thành phần tài sản trong khối cộng đồng, dẫn tới có những quy định khác nhau trong việc quản lí, sử dụng, định đoạt và thanh toán khối hôn sản.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest
2- Chế độ tài sản của Luật gia đình 1959 nói riêng và pháp luật miền Nam nói chung
- Luật Gia đình ngày 02/01/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm gồm 135 điều chia làm bốn thiên.
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh, quy định Về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng, sắc luật gồm ba chương và 158 điều.
- Bộ luật Dân sự ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật này đều có khuynh hướng “dân luật hóa” các quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng, mặc dù lĩnh vực hôn nhân và gia đình được quy định riêng trong hai văn bản Luật Gia đình số 1-59 ngày 02/01/1959 và Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964, trong Bộ luật Dân sự ngày 20/12/1972, các quan hệ hôn nhân và gia đình được quy đ1nh như là chế định của Bộ luật Dân sự từ thiên thứ V, VI, VII, VIII. Về chế độ tài sản của vợ chồng (Luật Gia đình năm 1959 quy định trong Chương II từ Điều 45 đến Điều 54; sắc luật số 15/64 quy định ở tiết 6 của Chương I từ Điều 49 đến Điều 61; Bộ luật Dân sự quy định tại chương thứ VI, thiên thứ V, từ Điều 144 đến Điều 169). Cả ba văn bản luật này đều dự liệu Về chế độ tài sản ước định (hôn ước), cho phép vợ chồng kí kết với nhau một hôn ước thoả thuận Về vấn đề tài sản từ trước khi kết hôn, miễn là sự thoả thuận bằng hôn ước đó không trái với trật tự công cộng, thuần phong mĩ tục và quyền lợi của con cái (Điều 45 Luật Gia đình năm 1959; Điều 49 sắc luật số 15/64 và Điều 144, 145 Bộ luật Dân sự năm 1972). Trong trường hợp hai vợ chồng không lập hôn ước với nhau Về tài sản thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định). Cả ba văn bản luật này cũng đều dự liệu chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật, tuy nhiên, có sự khác nhau Về thành phần tài sản trong khối cộng đồng, dẫn tới có những quy định khác nhau trong việc quản lí, sử dụng, định đoạt và thanh toán khối hôn sản.
Theo Luật Gia đình năm 1959, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định cũng là chế độ cộng đồng toàn sản, giống như chế độ tài sản của vợ chồng đã được áp dụng trong Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung kì trước đây. Tuy vậy, Luật Gia đình năm 1959 cũng như Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung kì đã dự liệu khác với Bộ luật Dân sự Pháp (1804), không dự liệu những chế độ tài sản làm kiểu mẫu (chuẩn) để cho các cặp vợ chồng lựa chọn khi họ lập hôn ước, mà chỉ dự liệu chế độ tài sản pháp định để áp dụng cho các cặp vợ chồng không lập hôn ước. ở đây, nhà lập pháp cho rằng chế độ cộng đồng toàn sản đã được áp dụng từ trước theo Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung ki và phù hợp với phong tục của người Việt Nam. Theo đó, nội dung của chế độ tài sản pháp định được dự liệu trong Luật Gia đình năm 1959 (Điều 48) cũng giống như hai bộ Dân luật Bắc kì (Điều 106, Điều 107) và Dân luật Trung kì (Điều 105). Điều 48 Luật Gia đình năm 1959 quy định khối cộng đồng tài sản của vợ chồng (thành phần tích sản) bao gồm:
- Tất cả của cải, động sản và bất động sản thuộc quyền sở hữu của vợ hay chồng khi lập hôn thú (tức là tất cả các tài sản mà vợ hay chồng đã có từ trước khi kết hôn);
- Các động sản và bất động sản của mỗi bên được hưởng do được thừa kế hoặc tặng cho (các tài sản này thuộc kí phần của vợ hay của chồng trong thời kì hôn nhân được nhập chung với tài sản của vợ chồng, trừ những tài sản do vợ hoặc chồng được thừa kế hay tặng cho mà người lập di chúc hay người tặng cho định khác);
- Các tài sản do hai vợ chồng có được hoặc do một bên vợ, chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân;
- Các hoa lợi thu được từ tài sản chung của vợ, chồng hoặc thu được từ tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng;
Cũng như Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung kì, Luật Gia đình năm 1959 cũng dự liệu những tài sản (động sản hoặc bất động sản) mà vợ, chồng có từ trước khi kết hôn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, trong thời kì hôn nhân, những tài sản này, được coi là tài sản chung của vợ chồng một cách “tạm thời”; trường hợp phải phân chia tài sản của vợ chồng thì của riêng ai lại trả cho người đó.
Theo Điều 54 Luật Gia đình năm 1959 thì tài sản chung của vợ, chồng phải gánh chịu (thành phần tiêu sản của khối cộng đồng) gồm:
- Nợ của vợ hay chồng đã vay từ trước khi kết hôn;
- Những nợ của hai vợ chồng trong thời kì hôn nhân;
- Những nợ do hành vi trái pháp luật của vợ hay chồng gây ra.
Khác với Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung kì, Luật Gia đình năm 1959 đuợc xây dựng theo quan niệm nhằm bảo đảm quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng (Điều 43), cả vợ và chồng đều có đủ năng lực pháp lí. Vì vậy, trong việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng, Điều 49 ấn định rằng “vợ, chồng cùng quản trị khối tài sản cộng đồng”. Tuy nhiên, quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng Về tài sản này vẫn chưa được bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội; bởi lẽ về mặt pháp lí, tại Điều 39 Luật Gia đình năm 1959 vẫn ghi nhận: “người chồng là trưởng gia đình và người vợ phải cùng nhau lo sự thịnh vượng của phối hiệp phu phụ và việc nuôi dưỡng cùng giáo dục con cải Mặt khác, xét Về bản chất của chế độ xã hội cũng như tục lệ của xã hội phong kiến đã không chấp nhận quyền bình đẳng giữa vợ chồng. Quy định trong Luật Gia đình năm 1959 đã có những mâu thuẫn nội tại từ nội dung các điều luật dự liệu Về quyền bình đẳng của vợ chồng.
Về việc thanh toán hôn sản, khác với Dân luật Bắc kì và Dân luật Trung kì đều quy định việc thanh toán hôn sản khi vợ chồng ly hôn và ấn định Về việc cộng đồng tài sản vẫn tiếp tục sau khi người vợ, chồng chết trước, Luật Gia đình năm 1959 đã không đề cập đến vấn đề này. Theo Luật Gia đình năm 1959 thì vấn đề thanh toán hôn sản chỉ được đặt ra khi một bên vợ hoặc chồng chết. Bởi lẽ, vấn đề ly hôn của vợ chồng không được Luật Gia đình năm 1959 chấp nhận (Điều 55), Vì thế Luật Gia đình không dự liệu việc chia tài sản của vợ chồng trong trường hợp ly hôn. Duy nhất một ngoại lệ đã cho phép Tổng thống có quyền cho đôi vợ chồng được ly hôn, sau khi đã hỏi ý kiến Chánh án Tòa phá án và Chánh nhất Tòa thượng thẩm, nơi cư trú của vợ chồng và sau khi nghe tộc trưởng hai bên cùng ý kiến, nguyện vọng của hai vợ chồng (Điều 55). Nếu Tổng thống cho phép vợ chồng được ly hôn, khi đó vấn đề phân chia tài sản của vợ chồng mới được giải quyết. Đối với trường hợp vợ chồng ly thân, Luật Gia đình năm 1959 đã dự liệu cho khối cộng đồng tài sản vẫn tiếp tục theo Điều 66, "bản án tuyên bố ly thân khổng chấm dứt chế độ cộng đồng tài sản”. Tuy vậy, do ly thân mà vợ chồng không cùng sống chung với nhau, dẫn tới phải có sự thay đổi Về việc quản lí tài sản chung của vợ chồng, sự thay đổi này do Tòa án quyết định (Điều 66), cũng như việc giải quyết vấn đề cấp dưỡng và nuôi con giữa hai vợ chồng.
Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ luật Dân sự ngày 20/12/1972 cũng ghi nhận chế độ tài sản ước định cho phép vợ chồng được tự do kí kết hôn ước, thoả thuận Về vấn đề tài sản của họ từ trước khi kết hôn, miễn sao không trái với thuần phong mĩ tục và trật tự công cộng (Điều 49 sắc luật số 15/64; Điều 144 Bộ luật Dân sự năm 1972).
Trường hợp vợ chồng không lập hôn ước, thoả thuận Về vấn đề tài sản của họ, sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972 đã dự liệu một chế độ tài sản áp dụng cho các cặp vợ chồng, đó là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản (Điều 53 sắc luật số 15/64, Điều 150 Bộ luật Dân sự năm 1972). Loại chế độ tài sản này với thành phần khối tài sản cộng đồng và quyền quản lí của vợ chồng đối với khối tài sản cộng đồng khác với chế độ cộng đồng toàn sản đã được thực hiện theo Dân luật Bắc kì, Dân luật Trung kì và Luật Gia đình năm 1959.
Theo Điều 54 sắc luật số 15/64 và Điều 151 Bộ luật Dân sự năm 1972 thì khối tài sản chung của vợ chồng (thành phần tích sản) gồm có:
- Các động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng khi kết hôn;
- Các động sản của vợ hay chồng được hưởng trong thời kì hôn nhân do được tặng cho, thừa kế;
- Các động sản và bất động sản của vợ hay chồng có được trong thời kì hôn nhân;
- Hoa lợi thu được của tất cả các loại tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kì hôn nhân.
Bên cạnh khối tài sản chung của vợ chồng, sắc luật số 15/64 (Điều 55) và Bộ luật Dân sự năm 1972 (Điều 152) đã dự liệu cho mỗi bên vợ, chồng có một khối tài sản riêng, bao gồm:
- Những bất động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng khi kết hôn (tức là các bất động sản mà vợ hay chồng đã có từ trước khi kết hôn);
- Những bất động sản mà mỗi bên vợ, chồng có được trong thời kì hôn nhân do được tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng.
Rõ ràng, theo quy định của sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972 thì thành phần khối tài sản của vợ chồng hẹp hơn nhiều so với chế độ cộng đồng toàn sản đã được áp dụng trong Dân luật Bắc kì, Dân luật Tiưng kì và Luật Gia đình năm 1959. Ngoài ra, Sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972 còn ghi nhận Về khối tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có). Nếu như trong chế độ cộng đồng toàn sản mà các bộ Dân luật Bắc kì, Dân luật Trung kì và Luật Gia đình năm 1959 dự liệu thì khi hôn nhân được xác lập, toàn bộ tài sản của vợ chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc được tạo dựng trong thời kì hôn nhân, đều là tài sản chung của vợ chồng; kí phần tài sản riêng của vợ, chồng chỉ được lấy Về trong trường hợp phân chia khối hôn sản; thì ngược lại, sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972 đã ấn định bên cạnh khối tài sản chung của vợ chồng, vợ, chồng có một khối tài sản riêng (nếu có) tồn tại độc lập. Quy định theo chế độ cộng đồng động sản và tạo sản này của sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972 giống với chế độ tài sản của vợ và chồng mà Bộ luật Dân sự Pháp (1804) áp dụng ở thời kì đầu, khi coi các bất động sản là tài sản chủ yếu của gia đình, trước khi có sự thay đổi theo Đạo luật số 65-570 ngày 13/7/1965 (chế độ tài sản của vợ chồng theo Bộ luật Dân sự Pháp (1804) kể từ khi ban hành Đạo luật số 65-570 ngày 13/7/1965 là chế độ cộng đồng tạo sản).
Về thành phần tiêu sản (Điều 61 sắc luật số 15/64, Điều 160 Bộ luật Dân sự năm 1972), khối tài sản chung của vợ chồng phải gánh chịu:
- Những nợ của vợ hay chồng đã vay từ trước khi kết hôn, trừ những nợ được bảo đảm bởi những quyền đối vật các bất động sản (theo Điều 55 sắc luật số 15/64; Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 1972);
- Những nợ của vợ chồng trong thời kì hôn nhân;
- Những nợ do hành vi phạm pháp của vợ hay chồng gây ra.
Về việc quản lí tài sản của vợ chồng, khác với Luật Gia đình năm 1959 dự liệu vợ và chồng đều có đủ năng lực Về pháp lí; sắc luật số 15/64 (Điều 42) và Bộ luật Dân sự năm 1972 (Điều 137) đã ghi nhận người chồng là gia trưởng và hành xử quyền gia trưởng theo quyền lợi của gia đình và con cái. Vợ cộng tác với chồng trong việc sinh hoạt gia đình, giáo dục và gây dựng cho con cái. Quy định này một lần nữa đặt người vợ vào tình trạng như là “vô năng lực”, với địa vị thấp kém so với người chồng - là người chủ gia đình. Người vợ chỉ được hành xử nghề nghiệp riêng biệt, trừ phi chồng phản kháng (Điều 47 sắc luật số 15/64; Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 1972). Đối với tài sản chung của vợ chồng, sắc luật số 15/64 (Điều 56) và Bộ luật Dân sự năm 1972 (Điều 153) đã dành cho người chồng - chủ gia đình có quyền quản lí tài sản chung như là chủ sở hữu duy nhất, trừ trường hợp người chồng bị mất tích hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, luật định cho người vợ thay thế chồng quản lí tài sản chung của gia đình. Ngoài ra, người chồng còn có quyền quản lí tài sản riêng của người vợ. Đối với tài sản riêng của người chồng thì người chồng có toàn quyền sở hữu với tư cách là chủ sở hữu. Vì quyền lợi của gia đình, khi có lí do chính đáng, vợ hay chồng có quyền yêu cầu Tòa án ngăn cản người chồng hoặc vợ rút tiền ở các chương mục do vợ, chồng mở tại ngân hàng hoặc sai áp lương bổng và lợi tức, hoa lợi từ tài sản của chồng, vợ (như một bên vợ, chồng đã có hành vi hoang phí, phá tán tài sản của gia đình, vô trách nhiệm đối với quyền lợi của gia đình...).
Về việc thanh toán hôn sản, sắc luật số 15/64 không dự liệu việc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước mà chỉ dự liệu việc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Đối với Bộ luật Dân sự thì việc thanh toán hôn sản được đặt ra trong cả ba trường hợp. Khi vợ, chồng chết; khi vợ chồng ly hôn hoặc ly thân. Bởi lẽ, bên cạnh việc thừa nhận vấn đề ly thân, sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972 đã dự liệu việc ly hôn của vợ chồng (vấn đề ly hôn đã bị cấm theo quy định của Luật Gia đình năm 1959). Như vậy, khi thanh toán hôn sản cần phân biệt:
- Nếu có hôn ước thì phải phân chia theo các điều Khoảncủa hôn ước.
- Nếu không có hôn ước thì chia theo nguyên tắc:
+ Tài sản của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó;
+ Tài sản của vợ chồng được chia đôi cho vợ chồng, mỗi người một nửa (Điều 94 sắc luật số 15/64; Điều 201 Bộ luật Dân sự năm 1972).
Đối với trường hợp ly hôn do lỗi của vợ, chồng thì người vợ, chồng có lỗi đó sẽ bị mất hết những quyền lợi mà người kia dành cho hoặc do hôn ước từ khi kết hôn (Điều 92 sắc luật số 15/64; Điều 200 Bộ luật Dân sự năm 1972). Trường hợp thanh toán hôn sản khi vợ chồng ly thân hoặc ly hôn, hậu quả của việc thanh toán tài sản của vợ chồng đặt vợ, chồng rơi vào tình trạng biệt sản. Tuy nhiên, sắc luật số 15/64 không dự liệu cụ thể vấn đề này, mà chỉ quy định chung: sự ly thân đặt vợ chồng rơi vào tình trạng tài sản riêng biệt (chế độ biệt sản). Tài sản chung sẽ phân chia... (Điều 97). Ngược lại, Bộ luật Dân sự năm 1972 đã dự liệu khi lập hôn ước, vợ chồng có thể lựa chọn chế độ biệt sản để áp dụng cho họ (Điều 168); người vợ có quyền quản lí, hưởng dụng và định đoạt tài sản riêng của mình. Cũng có thể chế độ biệt sản sẽ do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng khi có lí do chính đáng (Điều 165). Ngoài ra, trường hợp vợ chồng ly thân thì tài sản của vợ chồng sẽ được chia như khi ly hôn, tuy nhiên, ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng, mà chỉ làm chấm dứt chế độ tài sản chung, việc ly thân đương nhiên đặt vợ chồng rơi vào tình trạng biệt sản (Điều 204).
Xem thêm: Dịch vụ luật sư ly hôn của Công ty Luật TNHH Everest
3- Đánh giá về chế độ tài sản tại miền Nam giai đoạn 1954 - 1975
Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng theo các văn bản pháp luật ở miền Nam nước ta trước ngày giải phóng (giai đoạn 1954 - 1975) đã được nhà làm luật dự liệu tương đối cụ thể: Vợ chồng có quyền tự do lập hôn ước, thoả thuận Về vấn đề tài sản của vợ chồng nhằm duy trì trong suốt thời kì hôn nhân. Nếu không lập hôn ước, chế độ tài sản cộng đồng pháp định sẽ được áp dụng cho hai vợ chồng. Những văn bản pháp luật trên đây đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản (Luật Gia đình năm 1959) hoặc chế độ cộng đồng động sản và tạo sản (Sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân sự năm 1972) với những thành phần tài sản, phạm vi quản lí, định đoạt tài sản và việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, có những nội dung khác nhau. Đặc biệt, cả ba văn bản luật này vẫn bảo vệ quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình, Vì vậy, quan hệ bất bình đẳng Về tài sản giữa vợ và chồng vẫn tồn tại trong pháp luật và thực tế đời sống xã hội.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest
4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật miền Nam giai đoạn 1954-1975 và nghĩa vụ được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật miền Nam giai đoạn 1954-1975 có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm