Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc

16/02/2023
Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng
Chế độ tài sản của vợ chồng dưới thời Pháp thuộc đã được dự liệu khá cụ thể (trừ Tập Dân luật Giản yếu Nam kỳ đã không quy định về chế độ tài sản của vợ chồng). Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam đã ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (hôn ước) - phỏng theo Bộ luật Dân sự Pháp (1804), mặc dù còn có những quy định đon giản về loại chế độ tài sản này. Đối với loại chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (chế độ pháp định), nhà làm luật đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản, thường chỉ có tài sản chung của vợ chồng. Nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng được áp dụng cho loại chế độ tài sản theo luật định.

1- Khái lược về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác và cuối cùng đã đầu hàng vô điều kiện. Thời kỳ Pháp thuộc kéo dài gần tám chục năm, với chính sách “chia để trị”, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng.

- Ở Bắc kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kỳ).

- Ở Trung kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung kỳ).

- Ở Nam kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (Dân luật giản yếu Nam kỳ).

Nhìn chung, những quy định của pháp luật thời kỳ này nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình đã mang những sắc thái mới so với cổ luật thời phong kiến Việt Nam. Bên cạnh những tục lệ tồn tại trong xã hội phong kiến từ lâu đời, nhà làm luật đã “phỏng theo” Bộ luật Dân sự Pháp (1804) khi quy định về chế độ hôn nhân và gia đình, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng. Trong quan hệ giữa vợ chồng vẫn thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng, người vợ phụ thuộc chồng về mọi phương diện, người vợ ở đâu, làm gì phải được chồng ưng thuận, cho phép.

Về vấn đề tài sản giữa vợ chồng đã có những quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật (Dân luật Bắc kỳ năm 1931, Dân luật Trung kỳ năm 1936). Đối với tập Dân luật giản yếu ngày 03/10/1883 áp dụng ở Nam kỳ bao gồm 3 tiết nói về thất tung, hôn thú, ly dị, phụ hệ, con nuôi, phu quyền, vị thành niên, giám hộ; chỉ quy định các vấn đề thuộc về khả năng và thân trạng phỏng theo Bộ luật Dân sự Pháp (1804) mà không có quy định về tài sản, khế ước và nghĩa vụ. Đối với tài sản trong gia đình thi tập Dân luật giản yếu không nói gì đến chế độ tài sản của vợ chồng, di sản và tự sản. Án lệ đã được coi như một giải pháp lấp đi lỗ hổng của pháp luật ở Nam kỳ vào thời gian này.

Tại Bắc kỳ và Trung kỳ, ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Pháp (1804) thể hiện trong việc nhà làm luật dự liệu chế độ tài sản ước định và áp dụng nguyên tắc bất di, bất dịch của chế độ tài sản của vợ chồng theo hôn khế. Dân luật Bắc kỳ gồm 1455 điều được ban hành ngày 30/3/1931, có hiệu lực từ ngày 01/7/1931. Dân luật Trung kỳ (Hoàng Việt Hộ luật) được ban hành từng quyển một từ 13/6/1936 đến 28/9/1939 do Ban Tư pháp Huế soạn thảo phỏng theo Dân luật Bắc kỳ năm 1931. Được ban hành sau, nên Dân luật Trung kỳ đã có một số sửa đổi cho phù họp hơn so với Dân luật Bắc kỳ. Tại Điều 104 Dân luật Bắc kỳ quy định: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến đoàn thể vợ chồng là khi nào vợ chồng không cỏ tuỳ ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng ấy không được trải với phong tục và không được trái với qưyền lợi người chồng là người chủ trương trong đoàn thể”', phàm tư ước về tài sản của vợ chồng khi đã làm giá thú thì không được thay đổi gì nữa (Điều 105 Dân luật Bắc kỳ năm 1931). Quy định chế độ tài sản ước định này lần đầu tiên được dự liệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam theo quan niệm của nhà làm luật tư sản đã không phù hợp với tục lệ truyền thống của gia đình người Việt Nam, nên mặc dù được hai bộ Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ dự liệu, các cặp vợ chồng thường không thoả thuận lựa chọn loại chế độ tài sản ước định này.

Trường hợp vợ chồng không thoả thuận lập hôn khế khi kết lập giá thú, hai bộ Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ đều dự liệu một chế độ tài sản pháp định để áp dụng cho họ. Tuy nhiên, nếu Bộ luật Dân sự Pháp (1804) dự liệu một chế độ tài sản pháp định để áp dụng cho những đôi vợ chồng không lập hôn khế trước ngày lập hôn thú và đồng thời còn dự liệu một chế độ hôn sản là kiểu mẫu để cho các đôi vợ chồng lựa chọn trong trường hợp họ lập hôn khế, thì trong Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ chỉ quy định một loại chế độ tài sản pháp định để áp dụng cho các cặp vợ chồng không lập hôn khế. Đó là chế độ cộng đồng toàn sản. Theo tục lệ của người Việt Nam, mọi tài sản trong gia đình đềư là tài sản chung và đều để dành cho con, cháu. Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ đã chấp nhận tục lệ này khi dự liệu chế độ tài sản pháp định của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản, bao gồm tất cả các của cải và hoa lợi của chồng cũng như của vợ hợp thành khối tài sản chung của vợ chồng.

Điều 106, 107 Dân luật Bắc kỳ và Điều 105 Dân luật Trung ki quy định:

“Nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà chung nhau...".

Một điểm cần lưu ý là vào thời kỳ này, Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ và Dân luật giản yếu Nam kỳ đều thực hiện chế độ đa thê, cho phép người chồng có quyền lấy nhiều vợ. Chế độ đa thê đã được áp dụng rộng rãi theo tục lệ trong thời cổ ở xã hội Việt Nam; đen thời Pháp thuộc, nó được nhà làm luật dự liệu một cách minh thị (Điều 79, 80 Dân luật Bắc kỳ, Điều 79 Dân luật Trung kỳ, tiết V của Dân luật giản yếu Nam kỳ). Chế độ đa thê này bị bãi bỏ từ khi có Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Luật Gia đình ngày 02/01/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm (ở Miền Nam). Theo chế độ đa thê, có hai cách giá thú họp pháp: chính thất (vợ cả) và thứ thất (vợ lẽ). Trong gia đình, nếu người chồng lấy nhiều vợ thì chỉ được có một vợ là chính thất (vợ cả), có nhiều quyền hành trong các bà vợ, còn thứ thất (vợ lẽ) thì không kể, thường là vợ hai, vợ ba. Tuy nhiên, trong trường họp người chồng lấy vợ lẽ, chế độ tài sản được áp dụng cũng không khác gì so với trường hợp của người chồng với vợ cả, vì dù vợ lẽ có lập hôn thú hợp pháp hay không thì tài sản của vợ lẽ cũng riêng biệt hẳn đối với tài sản của chồng.

Cả hai bộ Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ đều dự liệu về thành phần khối hôn sản của vợ chồng bao gồm: kỉ phần hay phần góp của chồng; kỉ phần hay phần góp của vợ; của chung của vợ chồng. Đồng thời còn dự liệu khối cộng đồng (tài sản chung của vợ chồng) phải bảo đảm cho cuộc sống chung của gia đình, cũng như các món nợ của vợ chồng vay cho lợi ích của gia đình (thành phần tiêu sản)...

Theo Điều 106, 107 Dân luật Bắc kỳ và Điều 104, 105 Dân luật Trung kỳ thì chế độ tài sản pháp định được áp dụng cho các cặp vợ chồng không lập hôn khế trước khi kết hôn là chế độ cộng đồng toàn sản, với thành phần tài sản chung của vợ chồng bao gồm: Các tài sản do vợ chồng có được (tạo mãi) trong thời kỳ hôn nhân; Tài sản do vợ chồng làm việc mà kiếm ra; Lợi tức của toàn bộ tài sản trong gia đình, không phân biệt lợi tức đó thu được từ tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, toàn bộ tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân (cả động sản và bất động sản) đềư là tài sản chung của vợ chồng.

Điều 111 Dân luật Bắc kỳ và Điều 109 Dân luật Trung kỳ dự liệu khối tài sản cộng đồng phải gánh chịu các khoản nợ (thành phần tiêu sản của khối cộng đồng) sau đây:

- Những khoản nợ của vợ chồng đã vay trước khi kết hôn;

- Những khoản nợ của chồng vay trong thời kỳ hôn nhân;

- Những khoản nợ do vợ vay với tư cách là đại diện cho đoàn thể vợ chồng và các khoản nợ do vợ vay với sự ưng thuận của chồng

- Những khoản nợ do hành vi phạm pháp của vợ gây ra.

Theo quy định trên đây, tất cả các khoản nợ của chồng, dù vay từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt là do kí kết họp đồng hoặc do hành vi phạm pháp mà gây ra thì đều phải coi là nợ của hai vợ chồng và do khối cộng đồng phải gánh chịu. Riêng đối với những món nợ do hành vi phạm pháp của chồng gây ra, mặc dù Điều 111 Dân luật Bắc kỳ và Điều 109 Dân luật Trung kỳ không dự liệu rõ ràng nhưng xét trên cơ sở đạo lí và theo lẽ tất nhiên khối cộng đồng tài sản phải gánh chịu vì người chồng (theo luật định) luôn là người chủ gia đình. Đối với việc quản lí, sử dụng và định đoạt tài sản của gia đình, dựa theo Bộ luật Dân sự Pháp (1804) đã coi người đàn bà lấy chồng là “vồ năng cách”; Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ đều dự liệu trong việc quản lí và định đoạt tài sản chung của gia đình thì cần có sự phân biệt về quyền hạn của vợ và của chồng theo từng trường hợp cụ thể:

Một là, việc mà vợ chồng có thể tự mình thực hiện.

Theo Điều 100, Điều 111 Dân luật Bắc kỳ và Điều 98, Điều 109 Dân luật Trung kỳ thì đối với những nhu cầu chung của gia đình, vợ hoặc chồng đều có thể đại diện cho gia đình để giao dịch và khối tài sản cộng đồng được bảo đảm cho các giao dịch do vợ chồng kết ước với người khác. Thông thường, việc vợ chồng sử dụng tài sản chung nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình (nhu cầu gia vụ: ăn, ở, chữa bệnh...) thì pháp luật đương nhiên coi là đã có sự thoả thuận của hai vợ chồng khi định đoạt tài sản chung.

Hai là, việc phải do cả hai vợ chồng cùng thực hiện.

Theo Điều 109 Dân luật Bắc kỳ và Điều 107 Dân luật Trung kỳ thì ngoài việc quản lí, vợ và chồng muốn định đoạt tài sản chung phải cùng nhau thoả thuận (đồng ý), sự đồng ý có thể là công nhiên hoặc là mặc nhiên.

Ba là, việc một mình chồng làm được, còn vợ phải xin phép chồng.

Theo Điều 98 Dân luật Bắc kỳ và Điều 104 Dân luật Trung kỳ thì đối với các việc như lập hội, vay mượn, thuê mướn, đi kiện... người chồng có quyền tự mình thực hiện; ngược lại, người vợ chỉ được thực hiện nếu được chồng cho phép (ưng thuận), sự cho phép của người chồng có thể là công nhiên hay mặc nhiên.

Bốn là, đặc quyền của người chồng khi định đoạt tài sản chung của vợ chồng.

Theo đoạn 2 Điều 109 Dân luật Bắc kỳ và đoạn 2 Điều 107 Dân luật Trung kỳ thì người chồng có thể định đoạt tài sản chung không cần phải vợ bằng lòng cũng được, miễn là dùng vào việc có lợi ích cho gia đình, trừ bất động sản là tài sản riêng của người vợ.

Như vậy, trên cơ sở phân định quyền hạn của vợ chồng trong việc thực hiện quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng theo luật định, người chồng là chủ gia đình có quyền tự mình định đoạt tài sản chung, dù tài sản là động sản hay bất động sản, miễn là vì quyền lợi của gia đình. Ngược lại, người vợ (thông thường) chỉ được đại diện trong những nhu cầu gia vụ; nếu định đoạt những tài sản có giá trị lớn của gia đình, đều phải được chồng ưng thuận, việc ưng thuận của người chồng phải bằng văn bản có chữ kí của người chồng. Điều này thật bất công đối với người vợ trong gia đình, quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng luôn được áp dụng trong xã hội và trong pháp luật của Nhà nước thực dân, phong kiến ở nước ta trước đây.

Bên cạnh đó, pháp luật còn dự liệu về phương thức bảo vệ khối tài sản của gia đình. Theo Điều 100 Dân luật Bắc kỳ và Điều 98 Dân luật Trung kỳ thì trường họp người vợ một mình thực hiện các giao dịch lyên quan đến tài sản chung của vợ chồng mà lạm dụng quyền đó, ảnh hưởng tới quyền lợi của gia đình thì người chồng có quyền thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyền của người vợ.

Trường hợp người chồng không chu cấp để nuôi dưỡng vợ, con hoặc có hành vi phá tán tài sản của gia đình thì người vợ có quyền yêu cầu Tòa án cấm người chồng sử dụng kỉ phần của mình và tất cả các tài sản do người vọ hành nghề mà có. Tòa án có thể cho phép người vợ được quản lí, hưởng dụng tài sản đó (Điều 110 Dân luật Bắc kỳ, Điều 108 Dân luật Trung kỳ).

Về việc chia tài sản chung của vợ chồng, pháp luật thời kỳ Pháp thuộc (thông qua Dân luật giản yếu Nam kỳ, Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ) đã dự liệu một vài trường họp và nguyên tắc phân chia. Theo Bộ luật Dân sự Pháp (1804), khi vợ, chồng chết trước thì khối cộng đồng tài sản chấm dứt và phải được thanh toán. Ngược lại, án lệ tại Nam kỳ và hai bộ Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ đã áp dụng thuyết “Cộng đồng tiếp tục” trong trường hợp vợ hoặc chồng chết trước.

Theo Điều 113 Dân luật Bắc kỳ và Điều 111 Dân luật Trung kỳ thì:

- Khi người chồng mệnh một (chết) đì rồi, nếu người vợ cư sương thủ tiết (không tải giả) thì của chung vẫn để nguyên. Khỉ ấy người vợ góa được thay quyền chồng mà quản lí tài sản chung.

- Khi người vợ chết trước, thì một mình người chồng trở thành sở hữu chủ tất cả tài sản chung, kể cả kỉ phần của người vợ nữa.

Rõ ràng quy định này không đảm bảo được quyền binh đẳng của người vợ trong quan hệ thừa kế.

Trong trường hợp vợ, chồng ly hôn, theo Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ thì khối cộng đồng tài sản sẽ được phân chia. Tuy nhiên, việc áp dụng quan niệm khối cộng đồng tài sản được gây dựng để cho con, do vậy, pháp luật phân biệt hai trường hợp: vợ, chồng ly hôn mà có con chung hoặc không có con chung với nhau. Tuỳ theo từng trường họp mà áp dụng nguyên tắc phân chia khác nhau. Khi ly hôn, nếu hai vợ chồng có lập hôn khế thì chia theo các điều khoản trong hôn khế mà hai vợ chồng đã thoả thuận, nếu không có hôn khế thì áp dụng Điều 112 Dân luật Bắc kỳ và Điều 110 Dân luật Trung kỳ chia như sau:

- Trường hợp giữa hai vợ chồng không có con chung, người vợ được lấy lại kỉ phần tài sản của mình “bằng hiện vật hiện còn”. Nếu tài sản riêng của người vợ đã bị bán đi đế chi dùng cho gia đinh hay cho riêng người chồng thì người vợ không có quyền đòi lại. Vả lại, nếu tài sản riêng của vợ hay chồng đã được tu sửa, quản lí bằng tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản chung đó phải được tính vào khối tài sản cộng đồng để chia. Sau khi đã trả lại cho vợ, chồng kỉ phần của vợ chồng, phần tài sản chung của vợ chồng được chia đôi cho vợ chồng mỗi người một nửa.

- Trường hợp hai vợ chồng có con chung, người vợ không được thu hồi toàn bộ của riêng của mình, tức là những của cải đã đem về nhà chồng khi cưới và tài sản đã được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản ấy sẽ thuộc tài sản chung của vợ chồng do người chồng quản lí, vì của cải của vợ chồng là để dành cho con. Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ đã ấn định rằng nếu vợ, chồng ly hôn mà có con với nhau thì sẽ không thanh toán tài sản chung. Theo Điều 112 Dân luật Bắc kỳ dự liệu rằng nếu có con thì sau khi ly hôn người vợ được hưởng một phần của chung, phần ấy nhiều hay ít sẽ do Tòa án quyết định tuỳ theo công sức của người vợ. Còn theo Điều 110 Dân luật Trung kỳ thì dự liệu kỉ phần của người vợ sẽ là 1/3 số của chung, với ngụ ý rằng 1/3 chia cho chồng và 1/3 chia cho con. Trường họp vợ chồng ly hôn do lỗi của người vợ (phạm gian) thì phần trả cho người vợ sẽ bị giảm đi một nửa (1/2) (Điều 112 Dân luật Bắc kỳ) và một phần tư (1/4) (Điều 112 Dân luật Trung kỳ).

Nhận xét chung: Chế độ tài sản của vợ chồng dưới thời Pháp thuộc đã được dự liệu khá cụ thể (trừ Tập Dân luật Giản yếu Nam kỳ đã không quy định về chế độ tài sản của vợ chồng). Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam đã ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (hôn ước) - phỏng theo Bộ luật Dân sự Pháp (1804), mặc dù còn có những quy định đon giản về loại chế độ tài sản này. Đối với loại chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (chế độ pháp định), nhà làm luật đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản, thường chỉ có tài sản chung của vợ chồng. Nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng được áp dụng cho loại chế độ tài sản theo luật định.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư ly hôn của Công ty Luật TNHH Everest

2- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Chế độ tài sản vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Chế độ tài sản vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết. 

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org. vn.

Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng

Phạm Nhật Thăng là chuyên gia trong lĩnh vực Quản trị và An ninh (Management and Security)

0 bình luận, đánh giá về Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.34111 sec| 1015.852 kb