Tin tức
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000); Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là chế độ cộng đồng tạo sản, giữa vợ chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định có hai loại chế độ tài sản của vợ chồng: chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (từ Điều 47 đến Điều 50 và Điều 59) và chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64)
Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật một số nước trên thế giới
Thực tiễn ban hành và áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình của các nước trên thế giới cho thấy, nhà làm luật luôn mong muốn bằng pháp luật duy trì quan hệ hôn nhân và gia đình như một thiết chế xã hội vững chắc, bền vững, làm nền tảng cho một xã hội ổn định, phát triển. Vì mục đích đó, các quan hệ hôn nhân và gia đình ngày càng được điều chỉnh với các chế định pháp luật chặt chẽ. Trong đó, chế độ tài sản của vợ chồng luôn đóng một vai trò quan trọng, có ý nghĩa pháp lý và xã hội sâu sắc đối với gia đình và xã hội.
Chế độ tài sản của vợ chồng của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/9/1945). Tính tất yếu khách quan đòi hỏi cần phải có một hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo thời gian, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng cũng như thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) theo hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng dần được hoàn thiện.
Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc
Chế độ tài sản của vợ chồng dưới thời Pháp thuộc đã được dự liệu khá cụ thể (trừ Tập Dân luật Giản yếu Nam kỳ đã không quy định về chế độ tài sản của vợ chồng). Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam đã ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (hôn ước) - phỏng theo Bộ luật Dân sự Pháp (1804), mặc dù còn có những quy định đon giản về loại chế độ tài sản này. Đối với loại chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (chế độ pháp định), nhà làm luật đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản, thường chỉ có tài sản chung của vợ chồng. Nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng được áp dụng cho loại chế độ tài sản theo luật định.
Chế độ tài sản của vợ chồng trong cổ luật Việt Nam
Chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng trong cổ luật và tục lệ ở Việt Nam là chế độ cộng đồng toàn sản, với nội dung toàn bộ tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc do vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng với thành phần bao gồm các tài sản là động sản (Quốc Triều hình luật gọi là phù vật) và các bất động sản (điền sản). Trong đó điền sản được coi là tài sản chủ yếu, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong khối tài sản chung của vợ chồng. Nó có ý nghĩa thiêng liêng và thế hiện trật tự giữa các thành viên trong gia đình.
Khái quát chung về chế độ tài sản của vợ chồng
Thực tiễn đời sống xã hội cho thấy, sau khi kết hôn trở thành vợ chồng, bên cạnh đời sống tình cảm thương yêu, gắn bó giữa vợ chồng thì còn cần phải có tiền bạc, sản nghiệp... của vợ chồng để bảo đảm đời sống chung của gia đình. Bởi lẽ, tài sản là cơ sở kinh tế “nuôi sống” gia đình, không có tài sản thì gia đình không thể tồn tại và phát triển; không thể thực hiện được các chức năng cơ bản của gia đình trong xã hội. Nhà nước luôn bằng pháp luật phải quy định về chế độ tài sản của vợ chồng bởi các lẽ sau đây: Thứ nhất, do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập - tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân; gia đình được thiết lập, với tư cách là tế bào của xã hội, phải thực hiện các chức năng cơ bản đối với xã hội; Thứ hai, pháp luật có dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân; Thứ ba, khi vợ, chồng sử dụng, định đoạt tài sản của mình nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình... luôn có liên quan đến quyền lợi của những người khác - người thứ ba ký kết các hợp đồng liên quan đến tài sản của vợ chồng; Thứ tư, việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Tòa án) giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với những người khác.