Chế độ tài sản của vợ chồng của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay

16/02/2023
Đặng Thu Trang
Đặng Thu Trang
​​​​​​​Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/9/1945). Tính tất yếu khách quan đòi hỏi cần phải có một hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo thời gian, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng cũng như thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) theo hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng dần được hoàn thiện.

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/9/1945). Tính tất yếu khách quan đòi hỏi cần phải có một hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo thời gian, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng cũng như thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) theo hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng dần được hoàn thiện.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, do điều kiện lịch sử xã hội, cách mạng Việt Nam phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vì vậy Nhà nước ta chưa thể ban hành ngay một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Các quan hệ dân luật và hôn nhân và gia đình từ năm 1945 " 1950 vẫn tạm thời được điều chỉnh bởi ba văn bản luật: Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ, Dân luật giản yếu Nam kỳ theo sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa với điều kiện không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và lợi ích của nhân dân lao động.

Năm 1950, yêu cầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đòi hỏi cần phải xóa bỏ, hạn chế ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình thực dân, phong kiến lạc hậu. Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên quy định điều chỉnh một số quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đó có sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật, sắc lệnh gồm có 8 điều quy định về hồn nhân và gia đình và 5 điều quy định về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (cho đến nay các nguyên tắc này vẫn được kế thừa và phát triển trong hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình và pháp luật dân sự của Nhà nước ta).

Mặc dù chế độ tài sản của vợ chồng chưa được dự liệu cụ thể, song, dựa trên Điều 9 Hiến pháp năm 1946 - văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất của Nhà nước ta đã ghi nhận: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện ”; Điều 5 sắc lệnh số 97/SL quy định: “chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đìnhvà “người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ” (Điều 6). Như vậy, theo các quy định này, lần đầu tiên quyền gia trưởng của người chồng bị xóa bỏ, quan hệ nam nữ, vợ chồng bình đẳng về mọi mặt (trong đó có quyền bình đẳng về tài sản trong gia đình của vợ chồng) đã được thiết lập. Quy định mang tính nguyên tắc này đã thế hiện bản chất của nền pháp chế mới dân chủ, tiến bộ hơn hắn so với hệ thống pháp luật dưới thời thực dân, phong kiến ở nước ta.

Theo Điều 11 sắc lệnh số 97/SL thì “trong lúc còn sinh thời người chồng góa vợ hay vợ góa, các con đã thành niên có quyền xỉn chìa phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khỉ đã thanh toán tài sản chung”. Mặt khác, Sắc lệnh số 90/SL còn cho phép vận dụng pháp luật cũ có chọn lọc. Từ đó chúng ta có thể suy luận rằng: mặc dù sắc lệnh số 97/SL không có điều nào quy định về thành phần tài sản chung của vợ chồng thì chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng theo tinh thần của các sắc lệnh trên là chế độ cộng đồng toàn sản (chế độ tài sản này đã được áp dụng theo Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ). Toàn bộ tài sản của vợ chồng dù có trước hoặc được tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt về nguồn gốc, công sức tạo dựng... đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng và trên nguyên tắc binh đẳng, vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung. Như vậy, so với Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ thì sắc lệnh số 90/SL, sắc lệnh số 97/SL của Nhà nước ta đã thể hiện bản chất tốt đẹp, dân chủ của chế độ xã hội mới; bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng về mọi phưong diện mà hệ thống pháp luật dưới chế độ thực dân, phong kiến không thể có được.

Bên cạnh đó, theo sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn cũng đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi thực hiện quyền yêu cầu ly hôn; công nhận quyền tự do ly hôn của vợ chồng và các căn cứ chung để Tòa án giải quyết việc ly hôn (Điều 2); bảo đảm quyền yêu cầu thuận tinh ly hôn của vợ chồng (Điều 3); hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng khi người vợ đang có thai (Điều 5). về hiệu lực của việc ly hôn, mặc dù sắc lệnh số 159/SL chưa quy định rõ về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, song Điều 6 sắc lệnh số 159/SL đã quy định:

“Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng.

Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phỉ tẳn về việc nuôi dạy con, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình

Như vậy, theo quy định này, khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng phải được chia và tuỳ theo khả năng của mỗi bên, vợ, chồng phải cùng có nghĩa vụ trong việc nuôi dạy con. sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL không dự liệu về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Tuy vậy, theo tinh thần của những văn bản này, có thể suy luận rằng: tài sản chung của vợ chồng phải được chia đôi, mỗi bên vợ, chồng được chia một nửa giá trị tài sản chung (nguyên tắc này cũng đã được áp dụng theo Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ trước đây).

Sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL đã góp phần quan trọng nhằm hạn chế và xóa bỏ những quy định lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình thực dân, phong kiến; đặt nền tảng xây dựng một nền pháp chế mới dân chủ và tiến bộ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954), theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp thành lập chính quyền ngụy quyền Sài Gòn, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhà nước ta đã từng bước tiến hành cải tạo và phát triển nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập và ngày càng vững chắc, là cơ sở cho việc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực gia đình, sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, hạn chế và xóa bỏ phần nào ảnh hưởng tiêu cực của chế độ hôn nhân và gia đình thực dân, phong kiến không còn đáp ứng được trong tình hình mới. Sau ngày miền Bắc được giải phóng, do ảnh hưởng của những tàn dư tư tưởng lạc hậu, nhất là các hủ tục, các quy định cửa hệ thống pháp luật dưới chế độ cũ nhằm bảo vệ quyền gia trưởng nên sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, giữa các con trong gia đình, giữa con trai với con gái, con đẻ với con nuôi, con trong giá thú với con ngoài giá thú... còn rất nặng nề trong xã hội. Tình hình đó đòi hỏi trong cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa cần phải xóa bỏ tận gốc những tàn dư lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình thực dân, phong kiến. “Việc ban hành một đạo luật mới về hỏn nhân và gia đình đã trở thành một đòi hỏi cấp bách của toàn thể xã hội. Đó là một tất yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. Việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân và gia đình nhằm đáp ứng với sự nghiệp cách mạng của đất nước; đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ, bảo đảm quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình là tất yếu khách quan vì “nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ là một nửa ” (Hồ Chủ Tịch). Vào thời gian này, bản Hiến pháp thứ hai (Hiến pháp năm 1959) của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Quốc hội khóa thứ nhất, kỳ hợp thứ 11 thông qua ngày 31/12/1959 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 01/01/1960. Điều 24 Hiến pháp năm 1959 đã ghi nhận cơ bản chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa; quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng về mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình, là cơ sở để xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình xãầiội chủ nghĩa ở nước ta. Sau các cuộc điều tra khảo sát tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình (được tiến hành từ năm 1951 đến năm 1958, ở 11 vùng kinh tế khác nhau), lấy ý kiến thảo luận, đóng góp, bổ sung của nhân dân, Dự luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội khóa thứ nhất, kỳ hợp thứ 11 chính thức thông qua ngày 29/12/1959 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 13/01/1960 (theo sắc lệnh số 02/SL).

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (còn gọi là Đạo luật số 13 về hôn nhân và gia đình) là công cụ pháp lí của Nhà nước ta được xây dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ bản: xóa bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu; xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa.

Về chế độ tài sản của vợ chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 của Nhà nước ta không dự liệu chế độ tài sản ước định. Điều 15 quy định: “Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khỉ cưới Quy định này thể hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 dự liệu là chế độ cộng đồng toàn sản: toàn bộ các tài sản của vợ chồng dù có trước khi kết hôn hoặc được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; dù vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc cả hai vợ chồng được tặng cho chung hay được thừa kế chung, không phân biệt nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp, đều thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng. Luật không thừa nhận vợ, chồng có tài sản riêng. Vợ, chồng có quyền bình đẳng ngang nhau khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung và luôn có kỉ phần bằng nhau trong khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất đó. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã dự liệu hai trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng là khi vợ, chồng chết trước (Điều 16) và khi vợ chồng ly hôn (Điều 29). Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đinh. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất. Ngoài ra, luật cũng quy định: “Khi ly hân, cấm đòi trả của ” (Điều 28), nhằm xóa bỏ một trong những tập tục lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến trước đây.

Sau ngày miền Nam được giải phóng (30/4/1975), đất nước thống nhất, “cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất... tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”? Quốc hội khóa VI, kỳ hợp thứ nhất đã quyết định đặt tên nước là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thống nhất đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa thống nhất trên cả hai miền Nam - Bắc. Tại Nghị quyết số 76-CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ về vấn đề hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp lưật thống nhất cho cả nước đã quy định về việc thực hiện pháp luật thống nhất trong phạm vi cả nước, trong đó có Đạo luật số 13 về hôn nhân và gia đình (Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959).

Quốc hội khóa VI, tại kỳ hợp thứ 7 ngày 18/12/1980 đã thông qua bản Hiến pháp thứ ba (Hiến pháp năm 1980) của Nhà nước ta, làm nền tảng cho bước phát triển mới của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Trong Hiến pháp năm 1980, các điều 38,47, 63 và 64 đã quy định các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quá trình thực hiện và áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (từ khi được ban hành ở miền Bắc và áp dụng trên cả hai miền Nam - Bắc sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng) đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xóa bỏ triệt để những tàn tích lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội; đặc biệt nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, dưới sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX, đã làm thay đổi căn bản nền kinh tế xã hội; ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) cũng gặp nhiều vướng mắc, hạn chế do một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chưa cụ thể, hoặc không còn phù hợp với tình hình mới.

Ngày 25/10/1982 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã quyết định thành lập Ban dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình mới. Dự luật đã được Quốc hội khóa VII, kỳ hợp thứ 12 thông qua ngày 29/12/1986 và được Hội đồng Nhà nước công bố ngày 03/01/1987. Luật gồm 10 chương, 57 điều, được xây dựng và thực hiện với các nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ; một vợ, một chồng; vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con; bảo vệ bà mẹ và trẻ em. về chế độ tài sản của vợ chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng khồng ghi nhận chế độ tài sản ước định mà chỉ quy định chế độ cộng đồng tài sản pháp định áp dụng cho các cặp vợ chồng (các điều 14, 15, 16, 17, 18 và 42). Đặc biệt Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có quy định về chế độ tài sản của vợ chồng khác về căn bản so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 trước đây. Chế độ cộng đồng tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định là chế độ cộng đồng tạo sản, với phạm vi thành phần khối tài sản chung (Điều 14) của vợ chồng hẹp hơn rất nhiều so với chế độ cộng đồng toàn sản mà Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 áp dụng. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng (Điều 16), đồng thời cũng quy định về các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng chết trước và khi ly hôn.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng dựa trên các lí do sau:

Thứ nhất, với sự phát triển nền kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay, tài sản của công dân trở nên phong phú, đa dạng cả về giá trị sử dụng thực tế và giá trị tài sản. Trước khi kết hôn, mỗi bên vợ, chồng (có thể) đã có khối tài sản riêng có giá trị lớn, mà xét về bản chất kinh tế hay pháp luật, tài sản đó không phải là do hai vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân. Vợ, chồng trước hết với tư cách là công dân, có quyền sở hữu tài sản riêng của mình (Điều 27 Hiến pháp năm 1980, Điều 58 Hiến pháp năm 1992). Luật ghi nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng. Mặt khác, tạo điều kiện cho vợ, chồng được quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình với tư cách là chủ sở hữu, không bị lệ thuộc bởi ý chí của bên kia, cũng như sự lynh hoạt trong các quan hệ gia đình và xã hội có liên quan đến vấn đề tài sản: thoả mãn nhu cầu cá nhân bằng tài sản riêng; trả nợ hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng gây ra bằng tài sản riêng của vợ, chồng...

Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình với các quy định về sở hữu trong pháp luật dân sự; bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu khi tặng cho hoặc để lại thừa kế cho riêng hoặc cho chung cả hai vợ chồng.

Thứ ba, việc ghi nhận cho vợ, chồng có tài sản riêng còn bảo đảm quyền tự định đoạt và các mối quan hệ giữa vợ, chồng với các thành viên trong gia đình... Nếu theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, giữa vợ chồng không thể thiết lập các giao dịch (tặng, cho, mua, bán... tài sản của nhau) đối với nhau đuợc. Ví dụ, việc người chồng tặng vợ một chiếc dây chuyền trị giá 5 triệu đồng. Hợp đồng này chỉ có ý nghĩa về mặt hình thức, còn nội dung và bản chất của hợp đồng này không được bảo đảm, vì chiếc dây chuyền mà người chồng tặng vợ cũng là tài sản chung của hai vợ chồng; ngược lại, theo quy định về chế độ cộng đồng tạo sản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, giữa hai vợ chồng có thể “thiết lập” với nhau các giao dịch (vợ chồng có thể tặng cho, mua, bán tài sản riêng của nhau...). Sau hơn 20 năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng đã được bảo đảm, việc Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng không phải là phá vỡ tính truyền thống của gia đình Việt Nam; cũng không phải là “thiên” về yếu tố tài sản mà “xem nhẹ” yếu tố tình cảm trong quan hệ vợ chồng; không ảnh hưởng gì tới khối tài sản chung của gia đình, của vợ chồng. Mặt khác, nó có thể ngăn chặn một số việc kết hôn không đúng bản chất của quan hệ vợ chồng được xác lập, mà chỉ nhằm vào tiền bạc, tài sản của nhau (như kết hôn giả tạo để chiếm đoạt tài sản của nhau).

Thứ tư, trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh Luật Hôn nhân và gia đình, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhằm điều chỉnh các quan hệ của đời sống kinh tế - xã hội, có liên quan tới các quan hệ tài sản của vợ chồng. Quy định chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 còn bảo đảm có sự thống nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước và tính “hội nhập” với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới khi ngày nay các quốc gia này thường dự liệu chế độ cộng đồng tạo sản là chế độ tài sản pháp định được áp dụng đối với các cặp vợ chồng.

Theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội, hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta cũng dần được hoàn thiện. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được Nhà nước ta ban hành vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Mặc dù Luật đã dự liệu tương đối đầy đủ các quan hệ hôn nhân và gia đình cần được điều chỉnh, nhưng xét về kĩ thuật và quan điểm lập pháp, các quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 1986 vẫn rất cô đọng, khái quát, mang tính định khung. Các văn bản hướng dẫn áp dụng luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn thiếu, chưa kịp thời và chưa đáp ứng được với tình hình thực tế. Đặc biệt, liên quan tới các quy định về tài sản của vợ chồng luôn là loại việc phức tạp, Tòa án phải giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, liên quan tới việc cấp dưỡng, thừa kế giữa vợ chồng với nhau và giữa các thành viên trong gia đình. Việc giải thích nội dung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng chưa đầy đủ, thiếu cụ thể đã dẫn tới những quan điểm khác nhau khi áp dụng (hầu như mới chỉ có Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình có hướng dẫn về vấn đề tài sản giữa vợ, chồng, tại mục 3 của Nghị quyết). Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước ta phải sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 một cách toàn diện nhằm cụ thể hóa và tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Các quy định tại các điều 30, 35,40, 58, 63 và 64 Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước ta là cơ sở pháp lí của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Năm 1994, Ban dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được thành lập. Sau quá trình soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp của toàn dân, dự luật đã được Quốc hội khóa X, kỳ hợp thứ 7 chính thức thông qua ngày 09/6/2000 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 22/6/2000 (Lệnh số 08-L/CTN). Theo Nghị quyết số 35/2000/QH10, Luật này được gọi là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001. Chế độ tài sản của vợ chồng được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định trong chương III (các điều 25, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33) và các điều 95, 96, 97, 98, 99 (Chương X).

Giống với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của Nhà nước ta cũng không dự liệu về chế độ tài sản ước định (hôn ước) giữa vợ chồng. Loại chế độ tài sản này không phù hợp với tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam. Việc thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bằng một “khế ước" để thực hiện trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng không được luật quy định. Chế độ cộng đồng tài sản pháp định mà Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định là chế độ cộng đồng tạo sản, áp dụng cho các cặp vợ chồng. Cũng như Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về phạm vi thành phần khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp chia tài sản chung và hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ, chồng.

Để đáp ứng và bảo đảm tính khả thi, tương thích của pháp luật hôn nhân và gia đình trong bối cảnh hội nhập và phát triến, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được Nhà nước ta ban hành đã có nhiều quy định mới, trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Luật đã quy định có hai loại chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo luật định.

Đặc biệt, lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta, Luật đã ghi nhận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (hôn ước - từ Điều 47 đến Điều 50). Theo đó, Luật quy định cụ thể về các nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng (từ Điều 29 đến Điều 32); các điều kiện có hiệu lực của văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng; nội dung văn bản thỏa thuận; sửa đổi, bổ sung nội dung của văn bản thỏa thuận và văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu (từ Điều 47 đến Điều 50).

Đối với chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định (từ Điều 33 đến Điều 46, các điều 59, 60, 61, 62, 63, 66, 67), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là chế độ cộng đồng tạo sản với nhiều quy định cụ thể, phù hợp và bảo đảm tính khả thi cao trong thực tiễn.

 

0 bình luận, đánh giá về Chế độ tài sản của vợ chồng của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.42350 sec| 1031.586 kb