Đặc điểm pháp lý của thương nhân
Nội dung bài viết
- 1- Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại
- 2- Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình
- 3- Thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên
- 4- Thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại
- 5- Thương nhân phải có đăng ký kinh doanh
1- Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại
Đặc điểm thứ nhất, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại.
Thương nhân và hành vi thương mại có mối quan hệ logic với nhau. Điều đó được nhắc rất rõ trong các quy định pháp luật:
"Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại” - Khoản 1 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997
"Thương nhân gồm ... có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại...” - Khoản 6 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997
"Thương nhân bao gồm tổ chức ... cá nhân hoạt động thương mại...” - Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005
Như vậy, thương nhân là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Muốn xem chủ thể có phải là thương nhân hay không thì phải xem chủ thể đó có thực hiện hành vi thương mại hay không. Thực hiện hành vi thương mại là một đặc điểm không thể tách rời tư cách thương nhân, đây là tiêu chí quan trọng để phân biệt thương nhân với các chủ thể khác không phải là thương nhân.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest
2- Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình
Đặc điểm thứ hai, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình.
Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Thương nhân phải hoạt động thương mại một cách độc lập...”. Điều 121-1 Bộ luật Thương mại Cộng hoà Pháp quy định: “Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích của bản thân mình…”.
Như vậy, theo tinh thần của pháp luật thương mại, thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích bản thân mình là dấu hiệu cần thiết để xác định chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại có phải là thương nhân hay không.
Trong hoạt động thương mại thường có nhiều người tham gia, cần phải dựa vào tính độc lập trong thực hiện hành vi của những chủ thể đó để xác định chủ thể có phải thương nhân hay không. Thương nhân thực hiện hành vi thương mại một cách tự thân, nhân danh mình, vì lợi ích của bản thân và tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện hành vi thương mại đó. Khi thực hiện hành vi thương mại, thương nhân không bị chi phối bởi ý chí của chủ thể khác mà được hoạch định bởi ý chí của chính thương nhân. Việc nhân danh của thương nhân xuất phát từ quyền độc lập kinh doanh của chủ thể. Nếu thiếu điều kiện trên thì chủ thể không có tư cách thương nhân.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest
3- Thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên
Đặc điểm thứ ba, thương nhân phải thực hiện các hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên.
Theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Thương nhân... hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên …” hoặc khoản 1 Điều 121-1 Bộ luật Thương mại Cộng hoà Pháp quy định: “Chủ thể chỉ có tư cách thương nhân nếu thực hiện hành vi thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên...”
Vậy, pháp luật thương mại thừa nhận sự cần thiết của hai yếu tố: tính nghề nghiệp và tính thường xuyên để xác định tư cách thương nhân. Để trở thành thương nhân thì các chủ thể phải thường xuyên thực hiện những hành vi thương mại một cách thực tế, lặp đi, lặp lại, kế tiếp và mang tính nghề nghiệp. Các chủ thể thực hiện hành vi thương mại một cách riêng lẻ sẽ không có tư cách thương nhân.
Ví dụ: Một người thỉnh thoảng mua chứng khoán, với mục đích là để tìm kiếm lợi nhuận nhưng việc này không mang lại cho người đó tư cách thương nhân.
Hoạt động thương mại mang tính chất nghề nghiệp của thương nhân được hiểu là những hoạt động thường xuyên, liên tục được thương nhân thực hiện nhằm tạo ra những thu nhập chính cho thương nhân.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest
4- Thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại
Đặc điểm thứ tư, thương nhân phải có năng lực hành vi thương mại
Năng lực hành vi trong lĩnh vực thương mại là khả năng của cá nhân, pháp nhân bằng những hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý thương mại. Điều 17 Luật Thương mại năm 1997 quy định: “Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vỉ dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kỉnh doanh và trở thành thương nhân".
Để bảo vệ lợi ích xã hội, pháp luật thương mại Việt Nam quy định một số người không được công nhận là thương nhân. Người bị hạn chế năng lực hành vi cũng giống như người chưa thành niên đều không thể trở thành thương nhân vì họ không có khả năng nhận thức đầy đủ về hành vi của mình cũng như không có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý phát sinh từ các giao dịch của họ, vì vậy để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của chính họ, pháp luật không công nhận họ là thương nhân.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest
5- Thương nhân phải có đăng ký kinh doanh
Đặc điểm thứ năm, thương nhân phải có đăng ký kinh doanh
Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Thương nhân gồm... và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, đăng ký kinh doanh vừa có thể được nhìn nhận như là một đặc điểm của thương nhân vừa có thể coi như là một yêu cầu bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức muốn trở thành thương nhân.
Thực chất, đăng ký kinh doanh (đăng ký doanh nghiệp) là sự ghi nhận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của thương nhân. Việc này có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý cũng như về mặt thông tin.
Việc đăng ký doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về kinh tế, xác nhận sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, cung cấp thông tin cần thiết về doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ với doanh nghiệp.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest
6- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Đặc điểm pháp lý của thương nhân được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Đặc điểm pháp lý của thương nhân có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm