Quy định về giám định bổ sung, giám định lại trong vụ án hình sự
1- Quy định về giám định bổ sung
Điều 210, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về giám định bổ sung như sau:
“(1) Việc giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp: (a) Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ; (b) Khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó. (2) Việc giám định bổ sung có thể do tổ chức, cá nhân đã giám định hoặc tổ chức, cá nhân khác thực hiện. (3) Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu”.
Điều luật quy định về giám định bổ sung. Giám định bổ sung là trường hợp giám định tiếp theo việc giám định lần đầu khi có những căn cứ luật định, cụ thể:
a) Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ.
Đây là trường hợp kết luận giám định không đáp ứng về nội dung so với yêu cầu giám định nêu trong quyết định trưng cầu giám định. Kết luận giám định là chứng cứ quan trong phục vụ công tác xét xử vụ án hình sự đảm bảo đúng pháp luật. Vì vậy, nếu xét thấy kết luận giám định có nội dung chưa rõ, chưa đầy dủ thì cơ quan có thẩm quyền có quyền ra quyết định giám định bổ sung để đảm bảo có được kết quả giám định khách quan, chính xác nhất.
b) Khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã cố kết luận giám định trước đó.
Một vụ án hình sự trong quá trình xét xử sẽ liện tục được bổ sung chứng cứ hoặc bổ sung các tình tiết mới (nếu có) để phục vụ công tác điều tra, xét xử. Vì vậy, trước một tình tiết mới của vụ án hình sự mà cần thiết của việc trưng cầu giám định thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định giám định bổ sung để đảm bảo xét xử đúng người, đúng tuổi.
Điều luật không yêu cầu việc giám định bổ sung phải do tổ chức, cá nhân khác thực hiện. Do đó, việc giám định bổ sung có thể do tổ chức, cá nhân đã giám định thực hiện hoặc do tổ chức, cá nhân khác thực hiện, tùy thuộc vào cơ quan trưng cầu giám định.
Theo đó, khoản 4, Điều 2 Luật giám định tư pháp 2012 : “Cá nhân, tổ chức giám định tư pháp bao gồm giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp công lập, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.
Vì tính chất của giám định bổ sung là việc nghiên cứu, giám định thêm trên cơ sở kết quả giám định lần đầu tiên chứ không phải vì lý do sai phạm phía cơ quan giám định. Vì vậy, việc thực hiện giám định bổ sung vẫn có thể được thực hiện bới cơ quan giám định lần đầu. Mặt khác, việc để cơ quan giám định lần đầu tiên tiếp tục thực hiện giám định bổ sung sẽ rút ngắn thời gian giám định hơn do cơ quan này đã có sự am hiểu về đối tượng giám định trước đó rồi.
Việc trưng cầu, yêu cầu giám định bổ sung được thực hiện như giám định lần đầu.
2- Quy định về giám định lại
Điều 211, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về việc giám định lại như sau:
"(1) Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện. (2) Cơ quan trưng cầu giám định tự mình hoặc theo đề nghị của người tham gia tố tụng quyết định việc trưng cầu giám định lại. Trường hợp người trưng cầu giám định không chấp nhận yêu cầu giám định lại thì phải thông báo cho người đề nghị giám định bằng văn bản và nêu rõ lý do. (3) Trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp…”.
Bên cạnh quy định về giám định bổ sung, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định về giám định lại. Căn cứ và thủ tục giám định lại được quy định chặt chẽ hơn.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hiện na, chỉ duy nhất một trường hợp cơ quan, người tiến hành tố tụng ra quyết định giám định lại hoặc đương sự trong vụ án hình sự gửi yêu cầu giám định là là khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác.
Căn cứ nghi ngờ kết luận giám định không chính xác có thể trên cơ sở sai sót từ phía cơ quan giám định, quá trình giao nhận đối tượng giám định,…
Kết luận giám định sai có thể dẫn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Do tính chất quan trọng như vậy, điều luật quy định việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.
Giám định lại có thể tiến hành lần thứ hai khi có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định. Việc giám định lần hai do người trưng cầu giám định quyết định và phải do Hội đồng giám định thực hiện.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai. Hội đồng giám định gồm có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật Giám định tư pháp.
Giám định lại trong trường hợp đặc biệt
Điều 212, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt như sau:
“Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án”.
Thực tế cho thấy, có những trường hợp, sau khi có kết luận của Hội đồng giám định, kết quả giám định vẫn chưa đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án. Cá biệt có trường hợp, vụ án đã được giải quyết bằng quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn phát sinh yêu cầu giám định lại.
Trong những trường hợp đặc biệt này, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định.
Thời hạn giám định lại:
Tại khoản 4 Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thời hạn giám định như sau:
“4. Thời hạn giám định quy định tại Điều này cũng áp dụng đối với trường hợp giám định bổ sung, giám định lại.”
Căn cứ theo Điều 206 và khoản 1, khoản 2 Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn giám định lại được thực hiện theo quy định sau:
(1) Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định là:
- Không quá 03 tháng đối với trường hợp:
+ Trưng cầu giám định để xác định tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
- Không quá 01 tháng đối với trường hợp:
+ Trưng cầu giám định để xác định nguyên nhân chết người, mức độ ô nhiễm môi trường
- Không quá 09 ngày đối với trường hợp:
+ Trưng cầu giám định để xác định tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
+ Trưng cầu giám định để xác định tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
+ Trưng cầu giám định để xác định chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;
(2) Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định.
3- Thủ tục giám định bổ sung, giám định lại
Căn cứ Điều 209 BLTTHS 2015; Điều 25, 26, 27, 31, 35 Luật Giám định tư pháp 2012
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ
Hồ sơ yêu cầu giám định bổ sung/giám định lại gồm:
– Quyết định đề trưng cầu giám định bổ sung/giám định lại
– Tài liệu, vật chứng có liên quan (nếu có)
– Bản sao giấy tờ chứng minh mình là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc là người đại diện hợp pháp của họ
Quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ là trưng cầu giám định bổ sung hoặc trưng cầu giám định lại và lý do của việc giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Bước 2: Gửi hồ sơ
– Cá nhân, tổ chức yêu cầu giám định bổ sung/giám định lại gửi yêu cầu bằng văn bản và gửi quyết định kèm theo đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan (nếu có) đến cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.
– Hồ sơ, đối tượng yêu cầu giám định bổ sung/giám định lại được giao, nhận trực tiếp hoặc gửi cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định qua đường bưu chính.
Bước 3: Giao nhận hồ sơ giám định bổ sung, giám định lại
– Việc giao, nhận trực tiếp hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định phải được lập thành biên bản. Việc gửi hồ sơ, đối tượng trưng cầu, yêu cầu giám định qua đường bưu chính phải được thực hiện theo hình thức gửi dịch vụ có số hiệu. Cá nhân, tổ chức nhận hồ sơ được gửi theo dịch vụ có số hiệu có trách nhiệm bảo quản, khi mở niêm phong phải lập biên bản
– Trường hợp đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật có liên quan không thể gửi kèm theo quyết định trưng cầu giám định thì người trưng cầu giám định có trách nhiệm làm thủ tục bàn giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định.
– Đối với việc giao, nhận đối tượng giám định pháp y, pháp y tâm thần là con người thì người trưng cầu, yêu cầu giám định có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cá nhân, tổ chức được trưng cầu giám định quản lý đối tượng giám định trong quá trình thực hiện giám định.
Bước 4: Tiến hành giám định bổ sung, giám định lại
Thủ tục giám định bổ sung, giám định lại được thực hiện như với giám định lần đầu tiên
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trưng cầu giám định bổ sung/giám định lại, tổ chức được trưng cầu giám định tư pháp phải có văn bản cử người giám định gửi người trưng cầu giám định; đối với tổ chức phối hợp thực hiện giám định thì còn phải gửi văn bản cử người giám định cho tổ chức chủ trì việc thực hiện giám định.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai. Hội đồng giám định gồm có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể quy định tại khoản 3 Điều 28 của Luật giám định tư pháp 2012
Bước 5: Trả kết quả giám định bổ sung
– Thời hạn giám định bổ sung, giám định lại được quy định như đối với giám định làn đầu tiên
– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra kết luận giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định.
– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận giám định, cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định phải gửi kết luận giám định cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
– Trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm