Hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam

11/11/2024
Lê Hằng Nga
Lê Hằng Nga
BLHS Việt Nam hiện hành là BLHS năm 2015. Đây là BLHS thứ ba sau các BLHS năm 1985, năm 1999. BLHS năm 2015 được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 27/11/2015 và được Chủ tịch nước công bố ngày 09/12/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/1/2018.

1- Hiệu lực về thời gian của Bộ luật hình sự

Khoản 1 Điều 7 BLHS quy định: “Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.” Với quy định này, các điều luật hình sự cũng như BLHS nói chung chỉ có hiệu lực đối với tội phạm xảy ra sau khi điều luật, bộ luật có hiệu lực thi hành. Ở đây cần có sự phân biệt giữa điều luật và bộ luật vì có thể có những điều luật được bổ sung, sửa đổi sau khi BLHS đã có hiệu lực thi hành và như vậy giữa thời điểm BLHS có hiệu lực thi hành với thời điểm những điều luật được bổ sung, sửa đổi và có hiệu lực thi hành có sự khác nhau.

Khoản 1 Điều 7 BLHS là quy định có tính nguyên tắc; khoản 2 và khoản 3 của điều luật này phân biệt nhóm quy định không có lợi cho người phạm tội và nhóm quy định có lợi cho người phạm tội để xác định hiệu lực về thời gian cho từng nhóm. 

Theo khoản 2 Điều 7 BLHS, những điều luật có nội dung quy định không có lợi cho người phạm tội đều không có hiệu lực trở về trước. Đó là “Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn TNHS, loại trừ TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội...” (khoản 2 Điều 7 BLHS).

Theo khoản 3 Điều 7 BLHS, những điều luật có nội dung có lợi cho người phạm tội được phép có hiệu lực trở về trước. Đó là: “Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn TNHS, loại trừ TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội...” (khoản 3 Điều 7 BLHS).

Nội dung quy định hiệu lực về thời gian của BLHS được trình bày trên không có sự thay đổi so với nội dung tương ứng được quy định trong các BLHS trước đây là BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

2- Hiệu lực về không gian của Bộ luật hình sự

Khoản 1 Điều 5 BLHS quy định hiệu lực về không gian theo nguyên tắc lãnh thổ. Theo nguyên tắc này, BLHS có hiệu lực đối với mọi hành vi phạm tội được thực hiện “trên lãnh thổ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam".

Bổ sung cho nguyên tắc này, khoản 1 Điều 5 quy định:

BLHS cũng có hiệu lực đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của nó xảy ra “trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam” 

Quy định trên đây cần được hiểu cụ thể dựa trên chế độ pháp lý của từng bộ phận thuộc lãnh thổ cũng như các bộ phận không thuộc lãnh thổ nhưng thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam. Theo Điều 1 Hiến pháp Việt Nam, lãnh thổ Việt Nam “... bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Trong đó, vùng biển được hiểu gồm nội thuỷ và lãnh hải. Do lãnh hải có chế độ pháp lý tương đối đặc biệt so với các bộ phận hợp thành khác nên khi xác định hiệu lực về không gian đối với tội phạm xảy ra trên lãnh hải cần chú ý Điều 30 Luật biển Việt Nam cũng như Điều 27 Công ước của liên hợp quốc về luật biển. Tương tự như vậy, khi xác định hiệu lực về không gian đối với tội phạm xảy ra tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam cần chú ý các điều 16, 18 Luật biển Việt Nam và các điều 56, 77 Công ước của liên hợp quốc về luật biển.

Bổ sung cho quy định về hiệu lực về không gian tại khoản 1 Điều 5 BLHS, khoản 2 Điều 5 BLHS quy định phạm vi những người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam không bị xử lý theo BLHS Việt Nam. Đó là những người nước ngoài “... thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế...".

Quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự gồm nhiều quyền khác nhau. Khoản 2 của điều luật chỉ nói đến quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự nói chung nhưng cần phải hiểu đối tượng được nêu tại khoản này chỉ là những người được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự. Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về vấn đề này là Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam ngày 23/8/1993.

Khoản 1 Điều 6 BLHS quy định hiệu lực về không gian theo nguyên tắc quốc tịch chủ động. Cụ thể: BLHS có hiệu lực đối với tội phạm xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp người thực hiện tội phạm đó là công dân Việt Nam hoặc là người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam. Theo đó, BLHS cũng có hiệu lực đối với pháp nhân thương mại Việt Nam khi các điều kiện phải chịu TNHS của pháp nhân thương mại thoả mãn. 

Khoản 2 Điều 6 quy định hiệu lực về không gian theo nguyên tắc quốc tịch bị động, nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia và nguyên tắc phổ cập. Theo đó, BLHS có hiệu lực đối với tội phạm xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp tội phạm đó “... xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên”. So với các BLHS năm 1985 và 1999, BLHS năm 2015 mở rộng phạm vi hiệu lực về không gian. Hai nguyên tắc được sử dụng để mở rộng phạm vi hiệu lực về không gian là nguyên tắc quốc tịch bị động và nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia. 

Khoản 3 Điều 6 quy định hiệu lực về không gian theo nguyên tắc phổ cập trong trường hợp hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển. Theo đó, BLHS có hiệu lực đối với “... hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam... trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên có quy định”.
Như vậy, việc xác định hiệu lực về không gian của BLHS theo nguyên tắc phổ cập tại khoản 2 và khoản 3 Điều 6 điều liên quan đến các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Khi xác định cần chú ý không chỉ nội dung cụ thể của điều ước về tội phạm và quyền tài phán mà còn phải chú ý phạm vi tham gia của Việt Nam. 

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại. 

[b] Bài viết Hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.90515 sec| 960.016 kb