Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
"Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá".
Horace Walpole, 1717 - 1797, Bá tước Orford thứ 4
Ngày 06/04/2021, Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang thu hồi đất của ông Phạm Quý Thăng và bà Trần Thị Sáng nhưng lại ban hành Quyết định số 111/QĐ-UBND "về việc thu hồi đất để xây dựng công trình Nhà lớp học và nhà hiệu bộ Trường Mầm non Thái Long, thành phố Tuyên Quang" và Quyết định số 112/QĐ-UBND "về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư" cho ông Hoàng Việt Thạo. Ông Phạm Quý Thăng và bà Trần Thị Sáng sau hai lần khiếu nại tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang nhưng cho rằng không thỏa đáng nên tiếp tục khởi kiện vụ án hành chính, yêu cầu hủy các quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Kính thưa: Hội đồng xét xử - Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, thưa Vị đại diện Viện kiểm sát giám sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hành chính
Tôi là: Phạm Ngọc Minh - Luật sư của Công ty Luật TNHH Everest - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Tôi tham gia tố tụng vụ án với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện là ông Phạm Quý Thăng và bà Trần Thị Sáng - người khởi kiện trong Vụ án hành chính khiếu kiện “quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân”, được Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang thụ lý số 08/2024/TLST-HC ngày 05/4/2024.
Người khởi kiện cho rằng: ngày 06/04/2021 Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang thu hồi đất của người khởi kiện nhưng lại ban hành Quyết định số 111/QĐ-UBND "về việc thu hồi đất để xây dựng công trình Nhà lớp học và nhà hiệu bộ Trường Mầm non Thái Long, thành phố Tuyên Quang" và Quyết định số 112/QĐ-UBND "về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư" cho hộ gia đình ông Hoàng Việt Thạo. Do đó, người khởi kiện đã khiếu nại lần thứ nhất tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang.
Ngày 28/04/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang ban hành Quyết định số 1425/QĐ-UBND của về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Quý Thăng, thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang (lần đầu), trong đó không chấp nhận khiếu nại của người khởi kiện. Không đồng ý với Quyết định số 1425/QĐ-UBND (nêu trên), người khởi kiện tiếp tục khiếu nại tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
Ngày 13/12/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành Quyết định số 1530/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần Thị Sáng, trú tại thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (lần hai), theo đó bác khiếu nại của người khởi kiện. Không đồng ý với Quyết định số 1530/QĐ-UBND (nêu trên), người khởi kiện đã khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
Cụ thể người khởi kiện đã yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang hủy các quyết định hành chính:
(1) Quyết định số 1530/QĐ-UBND ngày 13 tháng 12 năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần Thị Sáng, trú tại thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (lần hai).
(2) Quyết định số 1425/QĐ-UBND ngày 28 tháng 4 năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Quý Thăng, thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang (lần đầu).
(3) Quyết định số 111/QĐ-UBND ngày 06/04/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang về việc thu hồi đất để xây dựng công trình Nhà lớp học và nhà hiệu bộ Trường Mầm non Thái Long, thành phố Tuyên Quang.
(4) Quyết định số 112/QĐ-UBND ngày 06/04/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ gia đình ông Hoàng Việt Thạo.
Các chứng cứ và luận cứ do người khởi kiện đưa cho yêu cầu khởi kiện, tôi trình bày ở phần dưới đây.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực đất đai, bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest
Các chứng cứ người khởi kiện đã nộp cho Tòa án thể hiện:
Khoảng năm 1980, gia đình người khởi kiện được Nhà nước được chia đất ruộng, trong đó theo định suất, trong đó có một thửa đất nông nghiệp trồng lúa có diện tích 382 m2 (sau đây gọi tắt là: thửa ruộng diện tích 382 m2). Thực tế người khởi kiện, đóng thuế nông nghiệp là đối với thửa đất này là diện tích 400 m2.
Ngày 20/10/1995, người khởi kiện được Nhà nước (Ủy ban nhân dân huyện Yên Sơn) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số E 3084709, số vào sổ 00488/QSDĐ. Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số E 3084709 ghi nhận thửa ruộng diện tích 382 m2 là thửa đất số 110, tờ bản đồ số 15, có mục đích đất trồng lúa.
Do thửa đất có số hiệu số 242, tờ bản đồ số 16 của nhà ông Hoàng Việt Thạo có diện tích nhỏ hơn nhưng có vị trí gần nhà người khởi kiện, và ngược lại thửa ruộng diện tích 382 m2 của người khởi kiện có vị trí gần nhà ông Hoàng Việt Thạo, cho nên năm 2010, hai gia đình đã trao đổi, thỏa thuận miệng về việc đổi đất - bản chất hai bên mượn đất của nhau để thuận tiện trong việc canh tác trên nguyên tắc 'có đi có lại', mà không phải là chuyển đổi đất. Sự việc nêu trên không có người chứng kiến, không có văn bản không đo đạc diện tích thực tế. Về diện tích chính xác của thửa đất số 242, tờ bản đồ số 16 của ông Hoàng Việt Thạo thì người khởi kiện không biết chính xác, cũng không đo đạc diện tích.
Người khởi kiện do đó vẫn giữ nguyên Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số E 3084709 đối với thửa ruộng diện tích 382 m2, ngược lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 242, tờ bản đồ số 16, hiện nay ông Hoàng Việt Thạo vẫn giữ.
Như vậy, theo thỏa thuận, hai bên cho nhau mượn đất để phù hợp với vị trí địa lý, điều kiện canh tác và thuận tiện canh tác, mà không chuyển đổi quyền sử dụng đất, không thực hiện đăng ký biến động sang tên đổi chủ.
Cùng thời gian này (khoảng năm 1995) ông Nông Văn Thỉnh có thửa đất liền kề có diện tích 382 m2, cũng có thỏa thuận tương tự, hai bên cho nhau mượn đất để tiện canh tác.
Khoảng cuối năm 2019 (không nhớ chính xác ngày tháng năm), người khởi kiện nghe thông tin Nhà nước có chủ trương xây dựng công trình: Nhà lớp học và nhà hiệu bộ Trường Mầm Non Thái Long, thành phố Tuyên Quang. Người khởi kiện đã nói chuyện với ông Hoàng Việt Thạo về việc trả lại đất đã mượn của nhau. Lúc đó ông Hoàng Việt Thạo, đã đồng ý, nhưng hai bên không lập biên bản.
Kể từ đó, người khởi kiện không nhận được bất cứ văn bản hay thông báo về việc thu hồi đất Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang, từ Ủy ban nhân dân xã Thái Long, hay ông Hoàng Việt Thạo.
Ngày 29/4/2021, người khởi kiện nghe nói về việc Thành phố Tuyên Quang trả tiền bồi thường, hỗ trợ thu hồi đất tại Ủy ban nhân dân xã Thái Long. Khi người khởi kiện đến tại Ủy ban nhân dân xã Thái Long thì thấy ông Hoàng Việt Thạo đã nhận tiền, mà đáng lẽ đây là số tiền của người khởi kiện vì nhà nước thu hồi thửa đất vào thửa ruộng diện tích 382 m2 thuộc quyền sử dụng của người khởi kiện.
Sau thời điểm này, người khởi kiện đã có đơn gửi tới Ủy ban nhân dân xã Thái Long, đề nghị xác minh giải quyết.
Ngày 02/6/2021, Ủy ban nhân dân xã Thái Long đã mời các bên lên làm việc, lập biên bản hòa giải tranh chấp đất đai. Biên bản ghi: “hai bên… không thống nhất với nhau thì lên Ủy ban nhân dân xã hướng dẫn làm đơn đến tòa án nhân dân thành phố giải quyết”. Sau đó, người khởi kiện cũng không thống nhất được với ông Hoàng Việt Thạo.
Người khởi kiện tìm hiểu thì được biết:
Ngày 08/10/2019, Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang ban hành Quyết định số 3053/QĐ-UBND về việc phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng công trình: Nhà lớp học và nhà hiệu bộ Trường Mầm Non Thái Long, thành phố Tuyên Quang.
Ngày 06/04/2021, Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang ban hành Quyết định số 111/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để xây dựng công trình Nhà lớp học và nhà hiệu bộ Trường Mầm non Thái Long, thành phố Tuyên Quang, trong đó có nội dung thu hồi đất của hộ gia đình ông Hoàng Việt Thạo.
Cùng ngày 06/04/2021, Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang ban hành Quyết định số 112/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ gia đình ông Hoàng Việt Thạo với số tiền 136.377.000 đồng.
Người khởi kiện được biết, ông Nông Văn Thỉnh và ông Hoàng Việt Thạo cũng có thỏa thuận tương tự như trường hợp của người khởi kiện (hai bên cho nhau mượn đất để phù hợp với vị trí địa lý, điều kiện canh tác và thuận tiện canh tác) tuy nhiên sau đó đã được Nhà nước trả tiền bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất.
Tóm lại, người khởi kiện cho rằng người khởi kiện và ông Hoàng Việt Thạo đã trao đổi, thỏa thuận miệng về việc mượn đất của nhau để thuận tiện trong việc canh tác trên nguyên tắc 'có đi có lại', mà không phải là chuyển đổi đất. Đồng thời, việc ông Hoàng Việt Thạo lợi dụng việc đang sử dụng thửa đất của người khởi kiện để kê khai nhận tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là hành vi gian dối, có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư thu hồi đất của Công ty Luật TNHH Everest
Căn cứ các quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013, người khởi kiện cho rằng mình đã đủ điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình Nhà lớp học và Nhà hiệu bộ Trường Mầm non Thái Long, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Việc xác định ông Hoàng Việt Thạo là đối tượng được bồi thường là không chính xác, không đúng quy định pháp luật. Do đó, người khởi kiện đã gửi đơn khiếu nại lần thứ nhất tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang
Ngày 28/4/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang ban hành Quyết định số 1425/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Quý Thăng, thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang (lần đầu), không chấp nhận khiếu nại. Người khởi kiện tiếp tục khiếu nại lần thứ hai tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
Ngày 13/12/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang ban hành Quyết định số 1530/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần Thị Sáng, trú tại thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (lần hai), tiếp tục không chấp nhận khiếu nại. Người khởi kiện tiếp tục khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay, người khiện tiếp tục giữ nguyên các quan điểm trong quá trình khiếu kiện hành chính. Cụ thể người khởi kiện cho rằng những lập luận, kết luận và quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang trọng các quyết định giải quyết khiếu nại hoàn toàn không khách quan, không căn cứ và chứng cứ có trong hồ sơ:
Thứ nhất, kết luận về nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đối với thửa đất bị thu hồi không khách quan.
Tại mục 1.II Quyết định số 112/QĐ-UBND ngày 06/04/2021 có nêu: “… thửa đất trên của người khởi kiện được giao từ năm 1980, đến năm 1997 thì đổi cho ông Hoàng Việt Thạo”; “Sau khi đổi đất, ông Hoàng Việt Thạo đã quản lý, sử dụng liên tục vào mục đích nông nghiệp ổn định, không có tranh chấp cho đến khi bị thu hồi”. Tuy nhiên, thông tin này là không chính xác, không đúng sự thật.
Thửa ruộng diện tích 382 m2 bị thu hồi được người khởi kiện đã sử dụng ổn định không có tranh chấp từ năm 1980 đến thời điểm bị thu hồi. Đồng thời Thửa ruộng diện tích 382 m2 đã được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất từ 20/10/1995 thể hiện tại Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số E3084709.
Và: tthời điểm người khởi kiện và ông Hoàng Việt Thạo thỏa thuận mượn đất của nhau là năm 2010, mà không phải năm 1997 như kết quả xác minh nêu tại mục 1.II Quyết định số 112/QĐ-UBND.
Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang và Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang không có bất cứ một chứng cứ hay tài liệu nào mà chỉ dựa vào lời khai gian dối của ông Hoàng Việt Thạo để kết luận: "đến năm 1997 thì đổi cho ông Hoàng Việt Thạo". Chúng tôi lưu ý, người sử dụng thửa đất liền kề Thửa ruộng diện tích 382 m2 chỉ có thể xác nhận ông Hoàng Việt Thạo sử dụng đất - vì có thỏa thuận mượn đất với người khởi kiện. Họ không thể xác nhận ông Hoàng Việt Thạo đổi đất - họ không chứng kiến việc này.
Thứ hai, về kết quả xác minh số hiệu thửa đất và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại mục 2.II Quyết định số 112/QĐ-UBND ngày 06/04/2021 có nêu: “… Thực tế, thửa đất đã thu hồi là thửa đất số 110a, tờ bản đồ giải thửa số 15, thửa đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” - là nội dung là không chính xác.
Câu hỏi đặt ra là vì sao Thửa ruộng diện tích 382 m2 lại có số hiệu 110a [?] Câu trả lời chính là: Nó có nguồn gốc từ thửa đất số 110, được tách ra từ thửa đất có số hiệu 110 (Thửa đất số hiệu 110a giao cho ông Phạm Quý Thắng, Thửa đất số hiệu 110b giao cho ông Nông Văn Thỉnh). Điều này có căn cứ pháp lý là Quyết định số 201-QĐ/ĐKTK ngày 14/07/1989 của Tổng cục Quản lý ruộng đất quy định về việc ban hành quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Quyết định số 499QĐ/ĐC của Tổng cục địa chính ngày 27/07/1995 ban hành mẫu sổ địa chính; sổ mục kê; sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; sổ theo dõi biến động đất đai. Theo đó, số 110a chính là số hiệu của thửa biến động, có nguồn gốc từ thửa đất số hiệu 110.
Một thực tế, toàn bộ các thửa đất tại xứ đồng thuộc xã Thái Long đều đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu vào thời điểm năm 1995. Do đó không thể có một thửa đất số hiệu 110a chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại bản đồ đo đạc giải thửa 299 xã Thái Long không còn thửa đất nào là thửa số 110 như ghi nhận tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số E 3084709. Và thửa đất 110 tờ bản đồ số 15 chính là 02 thửa đất, bao gồm thửa đất số 110a của người khởi kiện và thửa đất số 110b của nhà ông Nông Văn Thỉnh.
Tóm lại: Thửa ruộng diện tích 382 m2 mà người khởi kiện đã cho ông Hoàng Việt Thạo là chính là một phần của thửa đất có số hiệu 110, tờ bản đồ số 15. Tương tự thửa đất số 110b của nhà ông Nông Văn Thỉnh được Ủy ban nhân dân huyện Yên Sơn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Nông Văn Thỉnh cũng ghi nhận tờ bản đồ 15, số thửa 110, diện tích 382 m2 tương tự như cấp cho người khởi kiện. Việc hai số hiệu thửa đất (110) giống nhau như nêu trên là sai sót về chính tả, mà không phải việc cấp trùng giấy chứng nhận như trong các quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
Thứ ba, về căn cứ xác định đối tượng bị thu hồi đất và được bồi thường, hỗ trợ.
Người khởi kiện cho rằng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 75, Điều 101, khoản 1 và điểm b, điểm d khoản 3 Điều 167, điểm b khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013; khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 78, khoản 1 Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 01/2017/NĐ-CP và Nghị định số 148/2020/NĐ-CP) là hoàn toàn không chính xác, áp dụng sai quy định của pháp luật.
Việc người khởi kiện chưa có ý kiến về việc ông Hoàng Việt Thạo kê khai nhận tiền bồi thường, hỗ trợ bởi người khởi kiện không biết việc ông Hoàng Việt Thao khai báo gian dối để chiếm đoạt số tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của người khởi kiện.
Tóm lại, ông Hoàng Việt Thạo chỉ là người sử dụng Thửa ruộng diện tích 382 m2 theo thỏa thuận mượn đất với người khởi kiện. Ông Hoàng Việt Thạo không phải là người được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, cũng không thuộc trường hợp sử dụng ổn định không có tranh chấp.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest
Từ những căn cứ nêu trên, người khởi kiện kính đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:
1) Tuyên hủy Quyết định số 1530/QĐ-UBND ngày 13 tháng 12 năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần Thị Sáng, trú tại thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang (lần hai).
2) Tuyên hủy Quyết định số 1425/QĐ-UBND ngày 28 tháng 4 năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Quý Thăng, thôn Hòa Mục, xã Thái Long, thành phố Tuyên Quang (lần đầu).
3) Tuyên hủy Quyết định số 111/QĐ-UBND ngày 06/04/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang về việc thu hồi đất để xây dựng công trình Nhà lớp học và nhà hiệu bộ Trường Mầm non Thái Long, thành phố Tuyên Quang của hộ gia đình ông Hoàng Việt Thạo.
4) Tuyên hủy Quyết định số 112/QĐ-UBND ngày 06/04/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố Tuyên Quang về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ gia đình ông Hoàng Việt Thạo.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hành chính của Công ty Luật TNHH Everest
Luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện (tham khảo), được thực hiện bởi các luật sư của Công ty Luật TNHH Everest, dựa trên một vụ án hành chính có thật. Tên khách hàng và một số thông tin của vụ án đã thay đổi.
Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!
Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm