Luật Hôn nhân và gia đình ở nước ta giai đoạn 1975-2000
1- Khái quát Luật Hôn nhân và gia đình thời kỳ cả nước thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội (giai đoạn từ 1975-2000)
Quốc hội khóa VI, kì hợp thứ nhất đã quyết định đặt tên nước là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thống nhất đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa thống nhất trên cả hai miền Nam - Bắc. Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết số 76/CP Về vấn đề hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước, trong đó có Đạo luật số 13 Về hôn nhân và gia đình (Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959).
Tiếp đó, trong phiên hợp ngày 18/12/1980 của Quốc hội khóa VI, kì hợp thứ 7 đã chính thức thông qua bản Hiến pháp thứ ba của Nhà nước ta, làm nền tảng cho bước phát triển mới của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 - Đạo luật cơ bản của Nhà nước ta đã quy định Về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, và xã hội; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; cơ cấu tố chức và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan nhà nước; nó thể hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí trong xã hội Việt Nam. Các điều 38, 47, 63 và 64 của Hiến pháp năm 1980 đã quy định Về các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư ly hôn của Công ty Luật TNHH Everest
2- Ảnh hưởng của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 tới xã hội Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (1975-2000)
Quá trình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xóa bỏ những tàn tích lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã giành được những thành tựu đáng kể. Tình hình nước ta đã thay đổi Về căn bản so với giai đoạn năm 1959. Việc thực hiện và áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 trong thực tiễn đã có những vướng mắc, bất cập; một số điều của Luật đã không còn phù hợp. Việc ban hành Luật Hôn nhân và gia đình mới là một tất yếu khách quan để thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Ngày 25/10/1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã quyết định thành lập Ban dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình mới; Dự luật đã được Quốc hội khóa VII, kì hợp thứ 12 thông qua ngày 29/12/1986 và được hội đồng nhà nước công bố ngày 03/01/1987.
Luật Hôn nhân và gia đinh năm 1986 gồm 10 chương, 57 điều được xây dựng và thực hiện trên các nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ; nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng; nguyên tắc vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con; bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được thực hiện góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa thật sự dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững, thúc đấy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được Nhà nước ta ban hành trong những năm đầu thời kì đổi mới. Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với các điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội không ngừng phát triển đã ảnh hưởng (tác động) đến tình hình thực tế của các quan hệ hôn nhân và gia đình, hơn nữa, từ đầu những năm 1980 đến nay, Nhà nước ta ban hành rất nhiều văn bản pháp luật trong đó có liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình (đặc biệt là những quy định trong Luật Đất đai, Luật Hợp tác xã, Bộ luật Dân sự...). Sau hơn 10 năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tế áp dụng cho thấy những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 còn mang tính khái quát, định khung, chưa cụ thể; việc áp dụng luật giải quyết các tranh chấp từ các quan hệ hôn nhân và gia đình gặp nhiều vướng mắc. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước ta cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 một cách toàn diện. Các quy định tại Điều 30, 35, 40, 63 và 64 của Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lí của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam. Năm 1994, Ban dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 được thành lập. Sau quá trình soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp của toàn dân, dự luật đã được Quốc hội khóa X, kì hợp thứ 7 chính thức thông qua ngày 09/6/2000 và được Chủ tịch nước kí lệnh công bố ngày 22/6/2000 (theo Lệnh số 08L/CTN). Theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội, Luật này gọi là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tiếp tục kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luật gồm 13 chương, ly0 điều, được xây dựng và thực hiện trên nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng; hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tồn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai với con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú; Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ (Điều 2).
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest
3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Luật Hôn nhân và gia đình ở nước ta giai đoạn 1975-2000 được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Luật Hôn nhân và gia đình ở nước ta giai đoạn 1975-2000 có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.


TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm