Những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

05/10/2024
Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng
Nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo, có ý nghĩa xuyên suốt, quán triệt toàn bộ hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình.

1- Khái lược về nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam

Nội dung các nguyên tắc cơ bản thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về điều chỉnh pháp luật đối với nhiệm vụ và chức năng của mỗi thành viên trong gia đình, các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình mới.

Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình như sau: "1- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. 2- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 3- Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. 4- Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình. 5- Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam Về hôn nhân và gia đình".

Nội dung các nguyên tắc cơ bản nêu trên được thể hiện trong toàn bộ các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình, được quán triệt trong hoạt động thực tiễn thi hành, quá trình thực hiện.

Nhằm cụ thể hóa nội dung Hiến pháp năm 2013, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã khẳng định trách nhiệm của Nhà nước, xã hội trong việc bảo vệ, củng cố gia đình, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, đề cao nghĩa vụ của các thành viên gia đình trong việc tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau Về mọi mặt.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về hợp đồng hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest

2- Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ

Duới chế độ phong kiến, cha mẹ quyết định việc kết hôn của con cái, cưỡng ép hôn nhân cho nên tình yêu không thể là cơ sở của hôn nhân được. Giai cấp tư sản cũng tuyên bố tự do hôn nhân. Tuy vậy, hôn nhân chỉ tự do khi nó được xây dựng dựa trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, nghĩa là không bị những tính toán vật chất, địa vị xã hội chi phối.

Về nguyên lý, dưới chủ nghĩa xã hội, khi đã xóa bỏ chế độ tư hữu Về tư lyệư sản xuất, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa thì mới có điều kiện đảm bảo hôn nhân tự do thực sự, nghĩa là hôn nhân dựa trên cơ sở tinh yêu chân chính giũa nam và nữ. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ bảo hộ hôn nhân tự nguyện, nghĩa là trong quan hệ hôn nhân, khi kết hôn cũng như khi ly hôn, hai bên hoàn toàn tự nguyện; còn việc kết hôn đó có phải là kết quả của tình yêu hay không thì dù đó là mục tiêu hướng tới, nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật.

Hiến pháp Việt Nam quy định: “1- Nam nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyên, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2- Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi bà mẹ và trẻ em” (Điều 36 Hiến pháp năm 2013). Tại các Điều 2, 3, 4, 5, 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đều có quy định trực tiếp Về chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định các hành vi bị cấm và các phương thức bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình. Các hành vi bị cấm như: cấm tảo hôn, cường ép kết hôn, lừa dố1 kết hôn, cản trở kết hôn; cấm kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo, cấm yêu sách của cải trong kết hôn. Điều 8 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định’’.

Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ cũng đồng thời phải đảm bảo tự do ly hôn, nếu như không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể ép buộc họ tiếp tục cuộc sống vợ chồng, khi hạnh phúc gia đình đã không thể hàn gắn, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Tất nhiên tự do ly hôn không có nghĩa là ly hôn tuỳ tiện. Việc ly hôn phải đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Trong mọi trường hợp yêu càu ly hôn, Tòa án phải tiến hành hòa giải. Tòa án chỉ có thể xử cho ly hôn khi thấy quan hệ vợ chồng thực sự đã đến “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

- Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân một vợ một chồng

Nguyên tắc một vợ một chồng xây dựng trên nền tảng hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và nam nữ bình đẳng nhằm xóa bỏ chế độ đa thê trong hôn nhân thời phong kiến, coi rẻ phụ nữ, gây nhiều đau khổ cho phụ nữ.

Bản chất của hôn nhân tự nguyện trên cơ sở tình yêu nam nữ là hôn nhân một vợ một chồng. Mặt khác, chế độ một vợ một chồng đảm bảo tình yêu giữa họ thực sự bền vững, duy trì, củng cố hạnh phúc gia đình. Hôn nhân một vợ một chồng lâu dài, bền vững và thực sự hạnh phúc.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác” (Điều 4). Điều đó được khẳng định lại trong điểm c Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khi quy định những trường hợp cấm kết hôn.

Nguyên tắc một vợ một chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là sự kế thừa và phát triển nguyên tắc đó trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, năm 1986, và năm 2000. Để đảm bảo chế độ một vợ một chồng được thực hiện cả trong thực tế cuộc sống, như trên đã nêu, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và năm 2014 còn quy định cấm những người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác như vợ chồng. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa, tư tưởng và nhận thức của mỗi người. Việc thực hiện chế độ một vợ một chồng gắn liền với quyền bình đẳng giữa nam và nữ và do đó chỉ đến lúc quyền bình đẳng được xác lập hoàn toàn mới xác lập vững chắc chế độ một vợ một chồng.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chế độ một vợ một chồng xã hội chủ nghĩa khác với chế độ một vợ một chồng cổ điển, lúc mà nó vừa ra đời và tồn tại trong các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng tiếp theo. Nếu nguồn gốc của chế độ một vợ một chồng là do điều kiện Về kinh tế (chế độ tư hữu) và mục đích của nó là để đảm bảo con cái do người vợ đẻ ra phải là con của chính người chồng để thừa kế tài sản mà thực chất là duy trì chế độ tư hữu bóc lột, thì chế độ một vợ một chồng xã hội chủ nghĩa lấy tình yêu chân chính giữa nam và nữ là cơ sở và với mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận.

Trong xã hội theo chế độ "Phụ quyền”, “cần phải có che độ một vợ một chồng Về phía người vợ, chứ không phải Về phía người chồng, thành thử chế độ một vợ một chồng Về phía người đàn bà ấy không hề làm trở ngại chút nào cho chế độ nhiều vợ công khai hay bí mật của người đàn ông”.  Chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất - nguồn gốc của sự bóc lột, “các tư liệu sản xuất biến thành tài sản xã hội, thì chế độ lao động làm thuê - sẽ mất đi và tình trạng một sổ phụ nữ - cần phải bản mình Vì đồng tiền mất đi. Tệ nạn mại dâm sẽ mất đi, và chế độ một vợ một chồng không những không bị suy tàn mà cuối cùng lại còn trở thành hiện thực, ngay cả đối với đàn ông nữa ”.

Những lời tiên đoán trên đây đã được thực tiễn cuộc sống chứng minh. Nguyên tắc một vợ một chồng là nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình của hầu hết các quốc gia trong thời đại văn minh. Ngày nay, chỉ còn một số quốc gia còn thừa nhận chế độ đa thê.

- Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân một vợ một chồng và bình đẳng vợ chồng

Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình trên cơ sở nguyên tắc nam nữ bình đẳng mà Hiến pháp đã quy định.

Chế độ phong kiến thừa nhận sự bất bình đẳng, đặt phụ nữ vào địa vị phụ thuộc, thấp kém. Hồ Chủ tịch đã nói: “Luật lấy vợ lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức giải phóng phần nửa xã hội, giải phóng người đàn bà, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong người đàn ông”.

Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một bộ phận trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, “nếu không giải phỏng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có một nửa”.

Sự bất bình đẳng đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Nếu trong thời kì cộng sản nguyên 

thuỷ, công việc “tề gia nội trợ” của người đàn bà coi là công việc của xã hội và do vậy người đàn bà được bình đẳng với đàn ông thì đến thời kì tiếp theo đó lại hoàn toàn khác hẳn. Với sự xuất hiện của cải dư thừa, do đó xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện gia đình cá thể mà trong đó người đàn ông trở thành ông chủ, người đàn bà là nô lệ, là tài sản của người đàn ông. Công việc “tề gia nội trợ” không được coi là công việc xã hội nữa. Nó chỉ hạn chế trong từng gia đình, phục vụ cho người chồng, cho sự thống trị, cho việc duy trì chế độ tư hữu - nguồn gốc của mọi sự bất công, bất bình đẳng trong gia đình và xã hội. Ph. Ănggen đã chỉ ra rằng: “Với gia đình gia trưởng và hơn nữa với gia đình cả thể một vợ một chồng thì... việc tề gia nội trợ mất tính chất xã hội của nó. Nó không quan hệ gì đến xã hội nữa. Nó trở thành một công việc tư nhân; người vợ trở thành người đày tớ chỉnh và bị gạt ra khỏi việc tham gia sản xuất xã hội.

Chỉ có Đại công nghiệp ngày nay là đã mở trở lại cho họ - và chỉ mở cho phụ nữ vô sản thôi - con đường sản xuất xã hội... Tiền đề đầu tiên để giải phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia sản xuất xã hội, và điều kiện đó lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cả thể không còn là một đơn vị kinh tế của xã hội nữa ”. Chỉ khi nào “Các tư liệu sản xuất biến thành tài sản chung thì gia đình cả thể mới không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế gia đình tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội... ”.

Như vậy, chỉ trong điều kiện chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu Về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ sở hữu toàn dân thì mới có thể nói đến vấn đề nam nữ bình đẳng và giải phóng phụ nữ. vấn đề không phải chỉ ở chỗ “Người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy mỏ xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ít thôi”. Đó mới chỉ là tiền đề cho giải phóng phụ nữ. cần phải đảm bảo cho người phụ nữ có một địa vị vững vàng, ngang với nam giới Về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình. Và như vậy, cần phải xã hội hóa mọi công việc tề gia nội trợ, coi đó là một lĩnh vực hoạt động trong hệ thống sản xuất xã hội.

Hiến pháp Việt Nam qua các thời kì đều thể hiện đường lối của Đảng, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định nếu không có tự do và bình đẳng trong gia đình thì sẽ không có tự do và bình đẳng ngoài xã hội, và nguợc lại, nếu không có tự do và bình đẳng ngoài xã hội thì cũng sẽ không có tự do và bình đẳng trong gia đình. Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau Về mọi mặt chỉnh trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình", còn trong gia đình “vợ chồng bình đẳng” (Điều 36 Hiến pháp năm 2013).

Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ được cụ thể hóa trong hầu hết các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 2, Điều 4, Điều 17 đến Điều 23).

“Vợ, chồng bình đắng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau Về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp...” (Điều 17). “Việc lựa chọn noi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thoả thuận” (Điều 20). Đặc biệt, nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là một bước phát triển so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khi xác định chế độ tài sản của vợ chồng: Về chế độ tài sản chung theo thỏa thuận (Điều 28, 29, 33, 35, 36, 37, 38, 47, 48, 49); Về chia tài sản ly hôn (Điều 59, 61, 62, 63, 64,); Về cấp dưỡng lẫn nhau giữa vợ chồng (Điều 107,ly5).

Trong mấy chục năm qua, cùng với thắng lợi trong cách mạng dân tộc, dân chủ, trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã hình thành, xác lập quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, được ghi nhận tại các văn bản pháp luật của Nhà nước. Do đó, Về mặt pháp luật, địa vị của người phụ nữ đã bình đẳng với nam giới. Tuy nhiên, V.I. Lênin đã chỉ rằng: “Nhưng như thế chưa đủ. Bình đẳng Về pháp luật vẫn chưa phải là bình đẳng trong thực tế đời sống. Chúng ta phải làm sao cho nữ công nhân giành được bình đẳng với nam công nhân không những Về mặt pháp luật, mà cả trong thực tế đời sống nữa”.

Từ bình đẳng trước pháp luật đến bình đẳng trong thực tế đời sống còn cả một chặng đường dài. Sự bình đẳng đó được ghi nhận và từng bước được củng cố cùng với sự phát triển của xã hội, tạo cơ sở kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội cho việc thực hiện bình đẳng hoàn toàn.

Xem thêm: Mẫu hợp đồng hôn nhân chi tiết

3- Hôn nhân giữa công dân Vìệt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ

Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa Hiến pháp và các Công ước quốc tế Về quyền tự do và bình đẳng của con người và công dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Việc kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo, quốc tịch khác nhau là trên cơ sở tự do lựa chọn của những người trong cuộc, không bị ai cưỡng ép hoặc cản trở.

Nhằm đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế và thực hiện cam kết của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế, pháp luật Việt Nam đã có những quy định thể hiện quan điểm tôn trọng, bảo vệ quyền tự do, bình đẳng Về hôn nhân và gia đình của mọi người, không phân biệt đối xử.

Theo quy định tại Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “1- Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên… 3- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế”.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư ly hôn của Công ty Luật TNHH Everest

4- Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định một nguyên tắc cơ bản là tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và các con, các thành viên khác trong gia đình; Đề cao trách nhiệm cá nhân đối với gia đình.

Đây là một nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình được xác định theo tinh thần mới. Nếu như các đạo luật trước đó chỉ nhấn mạnh bảo vệ quyền lợi của các con, không bảo đảm quyền lợi của cha, mẹ, thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 một mặt bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con, mặt khác giáo dục tinh thần trách nhiệm giữa họ với nhau: “Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội. Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ” (Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).

Pháp luật phong kiến, tư sản coi rẻ quyền lợi con cái và hạn chế quyền lợi các con. Xuất phát từ tư tưởng chống quan điểm phong kiến, tư sản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đề ra nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái, đồng thời có quy định: “Con cái có nghĩa vụ kính yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ” (Điều 17). Nhưng do nhận thức không đầy đủ nên khi áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật hết sức phiến diện: chỉ chú trọng đến quyền lợi của con cái mà quên mất việc giáo dục tính trách nhiệm của các con đối với cha mẹ. Mặt khác, lối sống thực dụng hưởng thụ đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của con người trong gia đình và xã hội.

Trong một số gia đình, tình trạng con cái vô trách nhiệm đối với cha mẹ, cha mẹ bỏ mặc con không nơi nương tựa đã trở thành một thực trạng, là mối lo ngại của Nhà nước và xã hội. Vi vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, một mặt khẳng định nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con, mặt khác xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của các thành viên khác trong gia đình nhằm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Chương V (từ Điều 68 đến Điều 87) quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ nhân thân, quyền và nghĩa vụ tài sản giữa cha mẹ - các con. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định: “Không được phân biệt đổi xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động... ” (Điều 69).

Mục 2 Chương V Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (từ Điều 88 đến Điều 102) quy định việc xác định quan hệ cha mẹ, các con trên tinh thần bảo vệ lợi ích của các con, bảo đảm thực hiện quyền làm mẹ của phụ nữ, đồng thời ổn định quan hệ gia đình trong thời đại bùng nổ khoa học kĩ thuật và công nghệ. Cùng với những quy định Về việc xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ Vì mục đích nhân đạo, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung những quy định cụ thể Về điều kiện mang thai hộ Vì mục đích nhân đạo, thỏa thuận Về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, quyền, nghĩa vụ các bên, giải quyết tranh chấp và xử lý hành vi vi phạm pháp luật Về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ (Điều 93 đến Điều 100).

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực dân sự của Công ty Luật TNHH Everest

5- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con

Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con nhằm xác định nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ phải chăm sóc nuôi dưỡng con đảm bảo sự phát triển lành mạnh của con Về thể chất, trí tuệ và đạo đức, đồng thời phải giáo dục con có trách nhiệm với cha mẹ. Trên tinh thần đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác định trách nhiệm pháp lí giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quyền, nghĩa vụ của con dâu, con rể, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng (Điều 80). Mặt khác, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đề cao trách nhiệm pháp lí giữa các thành viên trong gia đình như ông, bà với các cháu; cha, mẹ với các con; anh, chị, em với nhau và các thành viên khác (Chương VI và Chương VII).

Sự thay đổi trong quan điểm Về gia đình và điều chỉnh pháp luật các quan hệ gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thể hiện tinh thần “xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con”, là hoàn toàn phù hợp với truyền thống đạo đức, văn hóa pháp lí và xu thế chung của thời đại, đề cao vai trò gia đình và bảo vệ quyền con người, Về cơ bản, nguyên tắc này là sự kế thừa và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.

iv) Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hô trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền Về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực h1ện kế hoạch hóa gia đình

Trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thuộc nhóm những người yếu thế trong xã hội. Nguyên tắc này được xác định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là sự cụ thể hóa Hiến pháp về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trong quan hệ hôn nhân và gia

Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con nhằm xác định nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ phải chăm sóc nuôi dưỡng con đảm bảo sự phát triển lành mạnh của con Về thể chất, trí tuệ và đạo đức, đồng thời phải giáo dục con có trách nhiệm với cha mẹ. Trên tinh thần đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác định trách nhiệm pháp lý giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quyền, nghĩa vụ của con dâu, con rể, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng (Điều 80). Mặt khác, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đề cao trách nhiệm pháp lý giữa các thành viên trong gia đình như ông, bà với các cháu; cha, mẹ với các con; anh, chị, em với nhau và các thành viên khác (Chương VI và Chương VII).

Sự thay đổi trong quan điểm Về gia đình và điều chỉnh pháp luật các quan hệ gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thể hiện tinh thần “xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con”, là hoàn toàn phù hợp với truyền thống đạo đức, văn hóa pháp lý và xu thế chung của thời đại, đề cao vai trò gia đình và bảo vệ quyền con người, Về cơ bản, nguyên tắc này là sự kế thừa và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.

Trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thuộc nhóm những người yếu thế trong xã hội. Nguyên tắc này được xác định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là sự cụ thể hóa Hiến pháp Về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Đây cũng là sự kế thừa và phát triển Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, xác định rõ hơn quan điểm Về bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo đảm thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình của người khuyết tật, người cao tuổi.

Bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại, bạo lực gia đình là một trong những hiểm họa Để dọa tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của các thành viên gia đình, mà trước hết là những người thuộc nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi. Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định các hành vi bị cấm, trong đó có bạo lực gia đình; lợi dụng việc thực hiện quyền Về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

Ngoài các điều Khoảnquy định việc đảm bảo giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ, quy định hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong trường hợp người vợ đang mang thai, sinh con, hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, quy định nuôi con nuôi nhằm mục đích chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em nhất là trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, việc xác định quan hệ cha mẹ - các con với tinh thần bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, trong đó có bà mẹ đơn thân, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 còn có các quy định cụ thể về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest

6- Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình

Mỗi quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình đều chứa đựng tinh thần kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, gắn kết với đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam Về hôn nhân và gia đình. Những quy định Về quan hệ vợ chồng, cha mẹ, các con; những quy định về quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quan hệ giữa bố mẹ chồng với con dâu, bố mẹ vợ với con rể (Điều 80); quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình (Chương VI). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khẳng định: “Nhà nước có chỉnh sách tạo điều kiện đế các thế hệ trong gia đình quan tâm, chẫm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; khuyến khích các cả nhân, tổ chức trong xã hội cùng tham gia vào việc giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam” (Điều 103).

Các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình có nội dung phong phú, liên hệ mật thiết, bổ sung cho nhau. Tuân thủ các nguyên tắc trên là yêu cầu bắt buộc đối với mọi người, mọi cơ quan nhà nước và các tổ chức trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật Về hôn nhân và gia đình.

(Nguồn tham khảo: Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam - Đại học Luật Hà Nội)

Xem thêm: Điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng hôn nhân

7- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng

Phạm Nhật Thăng là chuyên gia Quản trị và An ninh (Management and Security)

0 bình luận, đánh giá về Những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.36991 sec| 1060.602 kb