Quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên mua trong CISG

26/08/2024
Dương Vũ Long
Dương Vũ Long
CISG - hay Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế là một Công ước quan trọng đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Trong đó, những quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên mua đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu, áp dụng Công ước này vào trong vụ việc thực tiễn.

1- Quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên mua

[a]  Quyền huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu BTTH do vi phạm hợp đồng của bên mua

Điều 61 CISG quy định:
“1. Nếu người mua không thực hiện một nghĩa vụ nào đó theo hợp đồng mua bán hay bản Công ước này, thì người bán có thể:
a. Thực hiện các quyền quy định tại các điều 62 và 65.
b. Ðòi bồi thường thiệt hại như quy định tại các điều từ 74 đến 77.
2. Người bán không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền áp dụng các biện pháp bảo hộ pháp lý khác.
3. Không một thời hạn gia hạn nào có thể được tòa án hay Trọng tài ban cho người mua khi người bán viện dẫn một biện pháp bảo hộ pháp lý nào đó mà họ có quyền sử dụng trong trường hợp người mua vi phạm hợp đồng.”
Như được đề cập tại Điều 61, người bán được phép thực hiện các quyền như:
(i) Yêu cầu người mua trả tiền, nhận hàng, hay thực nghiện các nghĩa vụ khác (điểm a Điều 61, Điều 62 CISG)
(ii) Chấp nhận cho người mua một thời hạn bổ sung hợp lý để thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 63 CISG)
(iii) Tuyên bố huỷ hợp đồng (Điều 64 CISG)
Trong đó, quyền huỷ bỏ hợp đồng được ghi nhận tại  khoản 1 Điều 64 với 02 điểm:
Điểm a khoản 1 Điều 64: “Nếu sự kiện người mua không thi hành nghĩa vụ nào đó của họ theo hợp đồng hay Công ước hay cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng”: Dễ thấy, vi phạm chủ yếu hay vi phạm cơ bản hợp đồng là yếu tố tiên quyết để bên bán có quyền huỷ bỏ hợp đồng. Theo Điều 25 CISG thì “vi phạm cơ bản” (fundamental breach) là sự vi phạm hợp đồng bao gồm 02 yếu tố sau:
(i) Thứ nhất, sự vi phạm làm cho bên kia bị thiệt hại, bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng
(ii) Thứ hai, bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và người có lí trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu ở hoàn cảnh tương tự
Ta có thể rút ra được, việc huỷ bỏ hợp đồng theo Điều 64 cùa bên bán chỉ có thể được tiến hành khi thoả mãn các yếu tố như tồn tại sự vi phạm cơ bản của bên mua. Tuy nhiên, cần lưu ý tới hiệu lực của việc huỷ bỏ hợp đồng do Điều 26 CISG quy định: “Một lời tuyên bố về việc hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được thông báo cho bên kia biết.”
Bên cạnh đó, tại điểm b khoản 1 Điều 64 CISG cũng quy định rằng bên bán còn có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh do hành vi vi phạm của bên mua. Trên cơ sở bên mua đã không hoàn thành hoặc thực hiện đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hoá giữa hai bên. Cụ thể, bên bán được đòi bồi thường thiệt hại theo quy định từ các điều 74 đến 77 trong đó chủ yếu là các vấn đề liên quan đến xác định “thiệt hại”, xác định “khoản lợi bị bỏ lỡ” hay thế nào là “đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng”.

[b] Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Theo Điều 25 CISG mà nhóm đã phân tích ở trên, vi phạm cơ bản dựa trên các yếu tố như:
(i) Thực tế xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng (1)
(ii) Thực tế xảy ra thiệt hại (2)
(iii) Bên mua thấy được hậu quả của sự vi phạm đó (tức yếu tố lỗi) (3)
Các cấu thành trên đều là các yếu tố phải có để xác định vi phạm cơ bản của hợp đồng. Trong đó, yếu tố số (2) là căn cứ để xác định nghĩa vụ bồi thường, trong đó bồi thường trong CISG được hiểu là bồi thường đầy đủ bao gồm: Bồi thường thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest

2- Nguyên tắc xác định yêu cầu bồi thường thiệt hại trong CISG

Theo Điều 74 CISG,
“Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”
Theo đó, tác giả bài viết có một số nhận định về điều 74 như sau:

(i) Thứ nhất là, Điều 74 phản ánh nguyên tắc bồi thường đầy đủ
(ii) Thứ hai là, bên bị thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra với mình. Bên bị thiệt hại cần chứng minh mức độ tổn thất một cách cụ thể, minh  thị nhưng không cần phải chính xác tuyệt đối về mặt toán học
(iii) Thứ ba là, giá trị bồi thường thiệt hại mà bên bị thiệt hại yêu cầu thường được tính bằng giá thị trường của lợi ích mà bên bị thiệt hại đã bị tước đoạt do vi phạm hoặc chi phí cho các biện pháp hợp lý để dẫn đến tình huống có thể xảy ra nếu hợp đồng được thực hiện đúng cách.
Có thể thấy được, do các tổn thất mà bên bị thiệt hại/bị vi phạm phải gánh chịu: thường là các huỷ hoại về tài sản, hoặc hàng hoá bị mất mát, suy giảm giá trị so với trị giá trung bình trên thị trường hay so với thoả thuận ghi nhận trong hợp đồng (tức quyền lợi chính đáng mà bên bán đáng lẽ được hưởng). Các tổn hại cũng có thể từ việc bên bị vi phạm phải bỏ ra các chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục những hậu quả do bên vi phạm gây ra.
Khoản lợi bị bỏ lỡ (loss of profit): Được thiết kế ở Điều 74 để bên bị thiệt hại được bồi thường với tất cả các bất lợi mà mình phải gánh chịu. Khoản lợi này có thể là số tiền mà bên bán được hưởng khi đã giao hàng cho bên mua, hay một lợi ích khác phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ từ bên mua. Tại Điều 74 nói riêng và CISG nói chung chỉ nhắc tới chứ không giải thích thế nào là khoản lợi bị bỏ lỡ và cách tính toán cụ thể. Thay vào đó, việc xác định thường được trao cho Toà án thẩm quyền xác định: “Tổn thất phải chịu do hậu quả của hành vi vi phạm” của bên bị thiệt hại dựa trên hoàn cảnh vụ việc cụ thể. Đây là một vấn đề khó xác định, nhưng nhìn chung, thì tuỳ vào nhìn nhận của các hệ thống pháp luật của quốc gia khác nhau (common law hay civil law) thì mức độ cần chứng minh của bên bị thiệt hại là khác nhau. Tuy nhiên, nếu các khoản lợi bị bỏ lỡ này được xác định một cách hợp lý dựa trên các chi phí thực tế trong vụ việc thì có thể được chấp nhận là một khoản bồi thường thiệt hại.
Tất nhiên, CISG cũng giới hạn rằng số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn thiệt hại thực tế (bao gồm những khoản phát sinh từ hợp đồng, những khoản đáng lẽ phải thu được từ hợp đồng, những khoản bị bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu được hoặc đáng lẽ dự liệu được vào thời điểm ký hợp đồng..etc…)

Xem thêm: Dịch vụ luật sư hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest

3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên mua trong CISG được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên mua trong CISG có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của bên mua trong CISG

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.73977 sec| 960.273 kb