Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội

12/11/2024
Phạm Gia Minh
Phạm Gia Minh
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được nêu trong căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội là những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Vậy cụ thể việc áp dụng các quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội khi quyết định hình phạt như thế nào?

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có thể được phân loại thành ba nhóm khác nhau:

-  Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội (làm mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm xuống hoặc tăng lên đáng kể);

- Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội;

- Các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội.

Như vậy, các tình tiết này đã thuộc về nội dung của căn cứ thứ hai và thứ ba. Mặc dù vậy, luật hình sự Việt Nam vẫn coi các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ quyết định hình phạt độc lập để khi quyết định hình phạt, tòa án phải cân nhắc riêng các tình tiết này (nếu có) trong mối liên hệ với toàn bộ vụ án để quyết định giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong phạm vi khung hình phạt cho phép.

1- Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

Đây là các tình tiết thuộc về yếu tố mặt khách quan, mặt chủ quan hay về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng làm giảm mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đó là những tình tiết sau:

- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm a khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm và nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không để cho tác hại xảy ra hoặc đã hạn chế được tác hại của tội phạm. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do có tình tiết này không những phụ thuộc vào thái độ chủ quan của người phạm tội đổi với hành vi ngăn chặn hoặc giảm bớt tác hại mà còn phụ thuộc vào thực tế tác hại được ngăn chặn hoặc hạn chế như thế nào.

- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại và đã tự nguyện (không phải vì bị ép buộc) thực hiện các hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm là sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả của tội phạm.

Các hành vi trên đây cũng đồng thời phản ánh thái độ ăn năn hối cải của người phạm tội đối với hành vi phạm tội của mình. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này phụ thuộc vào sự cố gắng của người phạm tội cũng như vào mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế.

- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (điểm h khoản 1 Điểu 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Trường hợp phạm tội có tình tiết này giống trường hợp phạm tội có tình tiết ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm ở chỗ thiệt hại của tội phạm không xảy ra hoặc xảy ra không lớn nhưng khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến việc không xảy ra thiệt hại hoặc xảy ra không lớn. Trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội; còn trong trường hợp ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, người phạm tội đã có hành động tích cực để có được kết quả đó. Do hậu quả của tội phạm cũng là yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên luật hình sự cọi trường hợp chưa gây thiệt bại hoặc thiệt hại gây ra không lớn là trường hợp được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp lần đầu tiên phạm tội và tội phạm đã được thực hiện phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này phụ thuộc nhiều vào mức độ ít nghiềm trọng của hành vi phạm tội.

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp phạm tội có động cơ là phòng vệ. Hành vi phạm tội xảy ra là do người phòng vệ đã vượt quá giới hạn luật cho phép.

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (điểm d khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp phạm tội có tính chất tương tự như trường hợp trên.

- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (điểm đ khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015. Người phạm tội trong trường hợp này có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện việc này họ đã dùng vũ lực, gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết.

- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra (điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế về khả năng kiểm soát và khả năng điều khiển hành vi do tác động của hành vi trái pháp luật của nạn nhân. Mức độ giảm nhẹ trong từng trường hợp cụ thể tuy thuộc trước hết vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tác động...

- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra (điểm g khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm vì bị chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại. Trong đó, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hiểu là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường, có thể do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khách quan khác. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ khó khăn và mức độ cố gắng tìm cách khắc phục của người phạm tội.

- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức (điểm k khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp phạm tội do bị chi phối bởi ý chí của người khác thông qua hành vi đe doạ hoặc cưỡng bức. Do bị đe dọa hoặc cưỡng bức nên người phạm tội không hoàn toàn tự do lựa chọn, điều khiển hành vi của mình mà bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Đe dọa trong trường hợp này được hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại như dọa sẽ gây thương tích, đọa sẽ hủy hoại tài sản... nếu người bị đe đọa không thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình. Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần người khác để buộc họ phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập hoặc giam giữ người bị cưỡng bức... Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này tuỳ thuộc nhiều vào mức độ bị đe dọa hoặc cưỡng bức.

- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra (điểm 1 khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là tình tiết mới được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015. Người phạm tội trong trường hợp này đã thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hành vi và tình trạng này không phải do lỗi của chủ thể như do bị lừa dối nên đã sử dụng nhầm chất kích thích mạnh. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hành vi của người phạm tội.

- Phạm tội do lạc hậu (điểm m khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp phạm tội trong đó người phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu nên có sự nhận thức hạn chế tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và do vậy đã thực hiện tội phạm. Khi cân nhắc mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này cần căn cứ vào mức độ lạc hậu của người phạm tội trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương - nơi người phạm tội sinh sống.

- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (điểm q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp phạm tội mà chủ thể đã phạm tội khi đang trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi do mắc bệnh. Trong trường hợp này, lỗi của người phạm tội là lỗi hạn chế nên họ được coi là có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc mức độ hạn chế khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

2- Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội

- Người phạm tội tự thú (điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp tuy chưa bị phát hiện là người phạm tội nhưng chủ thể đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình.

- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, đã có biểu hiện thể hiện rõ đã day dứt, hối hận về việc thực hiện tội phạm và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động...

- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá giải quyết vụ án (điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phạm tội đã cung cấp các bằng chứng, tài liệu, tin tức cho cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của các cơ quan đó để phát hiện hoặc giải quyết vụ án về tội phạm mà họ tham gia thực hiện hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội khác có liên quan mà họ biết. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do có tình tiết này phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả của hành vi tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

- Người phạm tội đã lập công chuộc tội (điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phạm tội đã có thành tích đột xuất, tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hỏa, chống bão, lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng... Việc lập công này đã thể hiện phần nào sự hối hận cũng như quyết tâm cải tạo của người phạm tội.

- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hướng dẫn vận dụng cho các trường hợp người phạm tội được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua...

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

3- Các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội

- Người phạm tội là phụ nữ có thai (điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là trường hợp người phụ nữ phạm tội trong thời gian đang mang thai. Tình tiết này được quy định chủ yếu là xuất phát từ chính sách nhân đạo nhưng cũng có phần là do tình trạng sức khỏe và tình trạng tâm - sinh lý của người phụ nữ có thể bị ảnh hưởng khi mang thai.

- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên (điểm o khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định thay cho tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999: "Người phạm tội là người già". Việc quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ xuất phát chủ yếu từ nguyên tắc nhân đạo và có tính đến đặc điểm tâm - sinh lý ở lứa tuổi này.

- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (điểm p khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015. Việc quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chủ yếu xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo đối với người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

- Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015): Đây là tình tiết mới được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, nhưng đã được thừa nhận trong thực tiễn xét xử từ nhiều năm. Việc quy định tình tiết này chủ yếu xuất phát từ chính sách của nhà nước đổi với người có công với cách mạng và thân nhân của liệt sĩ trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc.

Ngoài các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được kể trên, tòa án còn có thể xác định tình tiết khác như tình tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng phải ghi rõ trong bản án (khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015).

Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest

4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.18110 sec| 1004.969 kb