Cơ sở lý luận của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự

27/05/2024
Chu Minh Đức
Chu Minh Đức
Mục đích chính của tố tụng hình sự là bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công 1ý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 2 Bộ luật tố tụng hình sự).

1- Mọi sự vật, hiện tượng thế giới khách quan luôn chịu sự tác động lẫn nhau

Để phát hiện và xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xác định các tình tiết vụ án là một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự. Việc chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án đòi hỏi phải có các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm tội, phản ánh các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm và các yếu tố liên quan đến người phạm tội. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự. Vì vậy, việc nghiên cứu bản chất của chứng cứ, lý giải về mặt khoa học cơ sở phương pháp luận, vai trò của chứng cứ nói riêng và quá trình chứng minh nói chung có ý nghĩa quan trọng trong lập pháp tố tụng hình sự cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

Bằng sự tác độnqg qua lại đó, sự tồn tại của sự vật, hiện tượng này luôn để lại "dấu vết" ở sự vật, hiện tượng khác. Tội phạm là hành vi cụ thể của con người được thể hiện ra thế giới khách quan. Chính vì sự tồn tại khách quan mà tội phạm cũng để lại các dấu vết nhất định. Bằng cách thu thập các dấu vết để lại và thông qua chúng con người có thể xác định được sự thật khách quan của vụ án. 

Căn cứ vào các đặc điểm hình thành và tồn tại của từng loại dấu vết mà các nhà làm luật quy định trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác nhau để đảm bảo cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Vi dụ: thủ tục thu thập vật chứng, chứng cứ vật chất (thông qua thu giữ, khám nghiệm...) khác với thu thập chứng cứ phi vật chất (thông qua lấy lời khai, cung cấp tài liệu, báo cáo...); thủ tục kiểm tra chứng cứ vật chất cũng có những điểm khác so với thủ tục kiểm tra chứng cứ phi vật chất v.v..

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về nhượng quyền thương mại của Công ty Luật TNHH Everest

2- Học thuyết về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở phương pháp luận

Học thuyết về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là học thuyết về sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người; cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vật chất có trước và sau mới là ý thức. Ý thức của con người có khả năng phản ánh chính xác, khách quan hiện thực khách quan là xuất phát điểm cực kỳ quan trọng cho lý luận về chứng cứ, cho lập pháp tố tụng hình sự về chứng cứ và áp dụng các quy định của pháp luật về chứng cứ trong thực tiễn.

Thực tiễn là thước đo của nhận thức. Mặc dù chứng minh trong tố tụng hình sự có những nét đặc trưng riêng là nhận thức về một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ với phạm vi và giới hạn xác : định, tuy nhiên, quan điểm này của học thuyết duy vật biện chứng về nhận thức không phải là ngoại lệ của quá trình chứng minh. Do quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự có những đặc trưng riêng nên việc dùng thực tiễn làm thước đo trong nhận thức về tội phạm cũng mang những nét đặc trưng riêng. Thực tiễn là cơ sở kiểm tra, đánh giá nhận thức về các tình tiết của vụ án và kiểm tra lại nhận thức chung về vụ án hình sự.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest

3- Con người có khả năng nhận thức được sự thật khách quan

Trong sự tồn tại bất tận của thế giới khách quan, nhận thức của con người là tương đối nhưng cùng với sự phát triển của tự nhiên và xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật... cũng như phụ thuộc vào nhiệm vụ nhận thức cụ thể, nhận thức của con người về thế giới khách quan càng đi dần đến tuyệt đối. Vi dụ: Nếu đặt ra nhiệm vụ hiểu biết về thế giới động vật muôn hình, muôn vẻ thì nhận thức của con người là tương đối, thế nhưng nếu đặt ra mục đích hiểu biết một con vật cụ thể thì nhận thức của con người có thể là tuyệt đối.

Trong tố tụng hình sự, phải nói rằng tội phạm là hiện tượng xã hội có muôn hình, muôn vẻ. Tuy nhiên, các yếu tố có ý nghĩa pháp lý hình sự của tội phạm lại được xác định rất cụ thể. Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của tội phạm mà người làm luật quy định đối tượng chứng minh, giới hạn các vấn đề chứng minh ở phạm vi nhất định. Đó là sự việc phạm tội (bao gồm thời gian, địa điểm, hành vị), người thực hiện tội phạm, lỗi và động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân người phạm tội, thiệt hại do tội phạm gây ra, nguyên nhân và điều kiện phạm tội... (Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự).

Như vậy, nhiệm vụ chứng minh trong tố tụng hình sự là rất cụ thể và được giới hạn trong phạm vi nhất định. Vì vậy, từ góc độ nhiệm vụ tố tụng đặt ra, có thể nói việc chứng minh trong tố tụng hình sự có thể đạt được sự thật khách quan tuyệt đối. Luật tố tụng hình sự nước ta quy định trong bất kỳ giai đoạn tố tụng hình sự nào, cơ quan có thẩm quyền cũng không thể quyết định giải quyết thực chất vụ án nếu chưa xác định đầy đủ sự thật khách quan. Trong các trường hợp này, vụ án phải được điều tra bổ sung hoặc điều tra lại.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực dân sự của Công ty Luật TNHH Everest

4- Phương pháp biện chứng có ý nghĩa quan trọng trong lý luận về chứng cứ

Phương pháp biện chứng đặt nền móng cho việc áp dụng các quy luật của phép biện chứng duy vật vào quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Các nội dung quan trọng của phép biện chứng trong nhận thức như nguyên tắc toàn diện, đầy đủ, cụ thể, hệ thống... đóng vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh. Phương pháp biện chứng của triết học Mác - Lênin được thể hiện tương đối đầy đủ tại khoản 2 Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự: "Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn điện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án".

Xem thêm: Về Công ty Luật TNHH Everest

5- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Cơ sở lý luận của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Cơ sở lý luận của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, Email: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Cơ sở lý luận của chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.49092 sec| 967.508 kb