Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân

22/02/2023
Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng
Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua vào ngày 21/12/1990 là văn bản có giá trị pháp lý quan trọng đầu tiên ghi nhận sự tồn tại tích cực, lâu dài, bình đẳng của kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng bên cạnh các thành phần kinh tế khác. Sự tồn tại về mặt pháp lý của doanh nghiệp tư nhân sau đó tiếp tục được ghi nhận tại Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020.

1- Khái niệm, đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với chủ trương đổi mới kinh tế chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh tế tư nhân lần đầu tiên được thừa nhận trong đời sống pháp lý và kinh doanh tại Việt Nam.

Cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua vào ngày 21/12/1990 là những văn bản có giá trị pháp lý cao, ghi nhận sự tồn tại tích cực, lâu dài, bình đẳng của kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng bên cạnh các thành phần kinh tế khác. Tiếp theo đó, sự tồn tại về mặt pháp lý của doanh nghiệp tư nhân được ghi nhận tại Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020.

Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về các dấu hiệu nhận diện doanh nghiệp tư nhân như sau:

"1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sấn của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.

3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.

4. Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty họp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.".

doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp  nên giống như những doanh nghiệp kinh doanh khác, doanh nghiệp tư nhân là tổ chức có tên riêng được nhà nước thừa nhận thông qua việc nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp; mục đích của doanh nghiệp tư nhân là thường xuyên, liên tục thực hiện hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Bên cạnh những dấu hiệu chung của một doanh nghiệp kinh doanh thì doanh nghiệp tư nhân còn có những dấu hiệu (đặc điểm) nhận diện riêng:

Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu. 

Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân Việt Nam hoặc cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, thành lập và làm chủ có nghĩa là doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ. Tất cả các cá nhân đều có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân trừ những cá nhân không có quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam.

Đặc điểm về chủ sở hữu (doanh nghiệp tư nhân thuộc sở hữu của một chủ) sẽ phân biệt doanh nghiệp tư nhân với những loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhiều chủ như công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên.

Với tính chất là doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ nên toàn bộ vốn để thành lập doanh nghiệp tư nhân chỉ do một cá nhân (chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân) đầu tư. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp, vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ đăng kí chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ số vốn bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại tài sản.

Chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký số vốn đầu tư và phải ghi chép đầy đủ toàn bộ vốn, tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư và phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng kí thì chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh.

Tuy nhiên, tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. Đây là điểm khác với công ty khi tạo lập tài sản công ty thì những người góp vốn vào công ty phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty. Như vậy, khác với các loại hình công ty là những tổ chức kinh tế có tài sản riêng thì doanh nghiệp tư nhân không có tài sản riêng mà tài sản của doanh nghiệp tư nhân vẫn là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân.

Từ tiền đề đó, trên nền tảng lý luận chung về quyền năng của chủ sở hữu đối với vật và tài sản thuộc quyền sở hữu của mình thì chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành doanh nghiệp tư nhân; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp tư nhân sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước, với bạn hàng của doanh nghiệp tư nhân; có quyền quyết định thay đổi số phận pháp lý của doanh nghiệp tư nhân như bán doanh nghiệp, cho thuê doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp.

Sở dĩ chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân vì chủ doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ quyền năng “định đoạt, sử dụng” doanh nghiệp tư nhân với bất kì tổ chức, cá nhân nào. Toàn bộ các quyền năng trong khuôn khổ quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân chỉ do chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định vì chủ doanh nghiệp tư nhân là cá nhân duy nhất đầu tư toàn bộ vốn để hình thành doanh nghiệp tư nhân. vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân có bản chất tương tự như vốn điều lệ của công ty. Quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp giống như quyền của chủ sở hữu (các thành viên, cổ đông) đối với công ty.

Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.

Theo Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau:

- Được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan;

- Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự;

- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;

- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Như phân tích tại đặc điểm thứ nhất khi nhận diện doanh nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân đầu tư vốn và làm chủ. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền sở hữu tài sản đầu tư vào doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp tư nhân không có tài sản độc lập. Do vậy, doanh nghiệp tư nhân không đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân.

Đặc điểm thứ ba: Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trách nhiệm tài sản trong kinh doanh thường được đặt ra đối với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp để chỉ về khả năng chịu trách nhiệm tài sản giữa doanh nghiệp với các khách hàng, chủ nợ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm tài sản bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp là trách nhiệm của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với doanh nghiệp do mình góp vốn đầu tư.

Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, không có tài sản riêng nên trách nhiệm tài sản đối với đối tác, khách hàng, chủ nợ, những người có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm. Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm tài sản vô hạn trong kinh doanh có- nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình bao gồm cả tài sản chủ doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư vào doanh nghiệp và tài sản mà chủ doanh nghiệp tư nhân không đầu tư vào doanh nghiệp.

Cụ thể hơn có thể hiểu, chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi số vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà còn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình không đầu tư vào doanh nghiệp trong trường hợp số vốn đầu tư đã đăng ký không đủ để thanh toán các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.

Như vậy, trách nhiệm vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân là một loại trách nhiệm tài sản không chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn chủ sở hữu đầu tư vào doanh nghiệp. Trách ' nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân được xác định từ thời điểm doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và thời điểm bị áp dụng trách nhiệm vô hạn là thời điểm doanh nghiệp tư nhân bị tuyên bố phá sản. Các văn bản pháp luật doanh nghiệp và pháp luật phá sản đã có sự thống nhất khi quy định về trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân.

Tuy nhiên, Luật Phá sản đã mở ra hướng “mềm dẻo” hơn về trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản. Theo đó, Khoản 1 Điều 110 Luật Phá sản năm 2014 quy định: Quyết định tuyên bo doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản quy định tại các điều 105, 106 và 107 của Luật này không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán nợ, trừ trường hợp người tham gia thủ tục phá sản có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Trách nhiệm vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân có điểm tích cực và điểm hạn chế như sau:

Đứng ở góc độ nhà đầu tư thì trách nhiệm vô hạn không phân tán được rủi ro trong kinh doanh cho cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân. Do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư nhân cao. Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình mà không có sự phân tán rủi ro cùng những chủ thể khác như những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.

Tuy nhiên, chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân lại tạo sự “an toàn” hơn cho chủ nợ vì chủ nợ có khả năng đòi được nợ không chỉ giới hạn trong số vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân vào doanh nghiệp đó. Có thể từ ý tưởng bảo vệ lợi ích tài sản cho chủ nợ trong mối quan hệ với doanh nghiệp tư nhân mà Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định: Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công tì họp danh.

Bàn luận vê trách nhiệm tài sản vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân có một số điểm lưu ý sau:

Một là, xác định khối tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản. Ngoài những tài sản mà chủ doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào doanh nghiệp sẽ còn bao gồm cả khối tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân được chia theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan.

Việc kê biên tài sản cùa chủ doanh nghiệp tư nhân được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự và không kê biên những tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân như: số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của chủ doanh nghiệp tư nhân và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập thu hoạch mới; số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của chủ doanh nghiệp tư nhân và gia đình; đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng để chăm sóc người ốm... Quy định về một số tài sản không kê biên của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản không mâu thuẫn với trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân bởi quy định của pháp luật được xây dựng trên nền tảng đạo đức, triết lý nhân văn của dân tộc và được quy định thống nhất trong các quy định của pháp luật.

Hai là, nhiệm vụ của khoa học pháp lý là cần phải quy định rõ về cách thức giải quyết trách nhiệm tài sản khi chủ doanh nghiệp tư nhân đã kết hôn. Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Tài sản chung được đưa vào kinh doanh thì trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản. Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ dừng lại ở quy định khi đưa tài sản chung vào kinh doanh thì cần sự thống nhất bằng văn bản của hai vợ chồng. Tuy nhiên, pháp luật về hôn nhân gia đình và pháp luật về doanh nghiệp cần có sự liên kết, hướng dẫn rõ một số nội dung sau:

Đặc điểm thứ tư: doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.

Quy định trên của pháp luật đã hạn chế quyền huy động vốn để đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay, ngoài doanh nghiệp tư nhân còn có công ty hợp danh là hai loại hình doanh nghiệp không có quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn. Điều đó có nghĩa là nếu các doanh nghiệp này muốn đầu tư mới, phát triển, mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp mình thì chỉ giới hạn huy động vốn bằng cách chủ sở hữu doanh nghiệp đầu tư thêm vốn vào doanh nghiệp hoặc đi vay tài chính và có thể có những khoản thu hút vốn đầu tư khác từ việc được tặng cho, thừa kế tài sản... So với công ty trách nhiệm hữu hạn được quyền phát hành trái phiếu và công ty cổ phần được phát hành chứng khoán để huy động vốn thì rõ ràng doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh khó khăn hơn khi tìm kiếm các nguồn tài chính cho hoạt động kinh doanh. Bên cạnh quy định doanh nghiệp tư nhân không được phát hành chứng khoán thì Luật Doanh nghiệp năm 2020 còn xác định rõ doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.

Lý giải cơ sở khoa học trong việc xây dựng quy định trên của Luật Doanh nghiệp năm 2020 hiện đang có những ý kiến trái chiều:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, sở dĩ doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào, doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần là vì để bảo vệ quyền lợi, hạn chế rủi ro cho các đối tác, chủ nợ trong quan hệ với doanh nghiệp tư nhân.

Ý kiến thứ hai, theo hướng “thông thoáng” nhằm tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân. Để bảo vệ cho ý kiến thứ hai, các lập luận bắt nguồn từ tương quan so sánh giữa quy định về quyền phát hành trái phiếu của công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ có thể gây rủi ro cho các chủ nợ hơn so với việc cho phép doanh nghiệp tư nhân được phát hành trái phiếu. Bởi vì chính chế độ trách nhiệm vô hạn sẽ tạo sự an toàn hơn cho người mua trái phiếu của doanh nghiệp tư nhân khi cho phép doanh nghiệp tư nhân được phát hành trái phiếu.

Trong khi đó, các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn được giới hạn trong phần vốn cam kết góp vào công ty và do đó người mua trái phiếu của công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ bị rủi ro về tài sản hơn. Những ý kiến trên cần được nghiên cứu, phân tích để hướng tới việc xây dựng điều luật về cách thức huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả hơn cho doanh nghiệp và tổng thể nền kinh tế của quốc gia.

2- Tổ chức, quản lý doanh nghiệp tư nhân

Luật Doanh nghiệp không quy định về mô hình tổ chức, quản lý doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định mô hình, bộ máy tổ chức, quản lý doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp chỉ xấc định chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. 

Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân trực tiếp làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân thì chính chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ giao kết hợp đồng thuê Giám đốc với người được thuê. Thực chất mối quan hệ thuê người khác quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân chính là quan hệ ủy quyền nên chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.  Bên cạnh đó cần phải phân định trách nhiệm khi người được thuê làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân thực hiện quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân vượt quá phạm vi trong hợp đồng thuê Giám đốc.

Về nguyên tắc, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp nhưng người được thuê làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân khi vượt quá phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ trong hợp đồng thuê Giám đốc doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm như trường hợp vượt quá phạm vi đại diện theo nguyên tắc chung tại Bộ luật Dân sự.

Theo đó, giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối; nếu không được sự đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện. Trách nhiệm trước pháp luật của chủ doanh nghiệp tư nhân, người được thuê làm Giám đốc doanh nghiệp tư nhân với các bên liên quan cần được quy định cụ thể, rõ ràng hơn trong các quy định của pháp luật và hợp đồng thuê Giám đốc.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý thành lập doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest

3- Quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân

[a] Quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân

- Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm kinh doanh.

Quyền tự do kinh doanh trước hết là quyền chủ thể của một cá nhân hay pháp nhân trong việc lựa chọn ngành, nghề kinh doanh, quy mô kinh doanh, lựa chọn khách hàng... Mặt khác, quyền tự do kinh doanh còn được hiểu là tổng hợp các quy định và đảm bảo pháp lý do Nhà nước ban hành nhàm tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh, trong đó có doanh nghiệp tư nhân thực hiện các quyền chủ thể phát sinh từ hoạt động kinh doanh.

- Tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành nghề kinh doanh.

- Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn.

- Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết họp đồng.

- Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu.

- Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh.

- Chủ động ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh.

- Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền giải thể doanh nghiệp tư nhân.

- Từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy định của pháp luật.

- Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

- Tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

- Doanh nghiệp tư nhân không có tài sản riêng nên quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp và quyền quyết định sử dụng lợi nhuận thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp tư nhân). Cụ thể:

Một là, Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.

Hai là, Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán, cho thuê doanh nghiệp. Quyền bán, cho thuê doanh nghiệp tư nhân là những quyền năng thể hiện rõ nét sự định đoạt cao về số phận pháp lý doanh nghiệp của chủ doanh nghiệp tư nhân so với các chủ sở hữu công ty.

(i) Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình nhưng phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công chứng đến cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế trong thòi hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hợp đồng cho thuê có hiệu lực thi hành. Trong thời hạn cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp. Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người thuê đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được quy định trong hợp đồng cho thuê. Bản chất của quan hệ cho thuê doanh nghiệp không làm thay đổi quyền sở hữu doanh nghiệp tư nhân mà chỉ làm thay đổi quyền quản lý, sử dụng doanh nghiệp tư nhân cho người khác và chủ doanh nghiệp tư nhân được thu về một số tiền từ việc cho thuê doanh nghiệp.

(ii) Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp phát sinh trong thời gian trước ngày chuyển giao doanh nghiệp, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác. Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về pháp luật lao động. Người mua doanh nghiệp phải đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Bản chất của việc bán doanh nghiệp tư nhân chính là việc chủ doanh nghiệp doanh nghiệp tư nhân chuyển nhượng vốn đầu tư của mình vào doanh nghiệp tư nhân cho người khác cùng với việc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp tư nhân.

- Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn.

[b] Nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân

- Đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư và bảo đảm duy trì điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh.

- Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xảc, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê.

- Kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. doanh nghiệp tư nhân phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vì đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là “doanh nghiệp” được thành lập theo quy định của pháp luật, bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhânN với tư cách là một cá nhân sẽ có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập khác ngoài thu nhập tại doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân.

- Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động.

- Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn do pháp luật quy định hoặc tiêu chuẩn đã đăng kyys hoặc công bố.

- Thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, công khai thông tin về thành lập và hoạt động, báo cáo và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.

- Chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và các báo cáo; trường hợp phát hiện thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó.

- Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bình đẳng giới, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh.

- Thực hiện nghĩa vụ về đạo đức kinh doanh để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và người tiêu dùng.

Xem thêm: Dịch vụ pháp chế doanh nghiệp thuê ngoài (luật sư nội bộ) của Công ty Luật TNHH Everest

Luật sư Nguyễn Thị Hoài Thương, tổng hợp (tham khảo: Giáo trình Luật Thương mại - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).

0 bình luận, đánh giá về Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.49569 sec| 1054.93 kb