Khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả
Nội dung bài viết
1- Khái niệm quyền tác giả
Ngay từ thời kì sơ khai của xã hội loài người, những sáng tạo tinh thần đã ra đời như là một phần không thể thiếu bên cạnh các tài sản vật chất, làm phong phú đời sống của con người. Từ thời kì cổ đại, mặc dù con người đã có ý niệm về quyền sở hữu, tuy nhiên mới chỉ quan tâm đến quyền đối với những “vật thể” hữu hình. Người ta chưa có sự phân biệt giữa sáng tạo tinh thần với vật thể chứa đựng nó như cuốn sách hay bức họa. Các quy định của pháp luật thời kì cổ đại và trung đại mới chỉ dừng lại ở việc bảo vệ quyền sở hữu đối với “vật thể” chứa đựng tác phẩm, mà chưa bảo hộ quyền sở hữu đối với “sáng tạo trí tuệ”. Năm 1440 sáng chế về máy in ra đời, tạo khả năng sao chép tác phẩm với số lượng lớn. Từ đó, lịch sử của QTG đã phát triển sang một bước mới với sự ra đời và thừa nhận các “đặc quyền” liên quan đến việc in ấn, sao chép, nhân bản, phân phối các bản sao tác phẩm. Thời kì này, tác phẩm tinh thần vẫn chưa được nhìn nhận và bảo vệ một cách độc lập vì đặc quyền cho tác giả gắn liền với điều kiện tác phẩm phải được in. Tuy nhiên, các đặc quyền in ấn có tính chất giống với quyền sở hữu, đã đặt nền móng cho việc bảo hộ QTG.
Den the ki XVIll, lý thuyết về quyền sở hữu cho các lao động trí óc. được gọi là Thuyết quyền SHTT (hay sở hữu tinh thần) lần đầu xuất hiện. Nước Anh dưới triều đại của nữ hoàng Anne là nước đầu tiên còng nhận độc quyền của tác giả trong việc nhân bản tác phẩm bằng đạo luật Statute of Anne năm 1710. Sau nước Anh, nước Mỹ vào năm 1795 cũng ban hành luật liên bang cho phép tác giả độc quyền khai thác về mặt kinh tế tác phẩm trong thời hạn 14 năm và có thể gia hạn 14 năm nữa. Tại Pháp, tất cả các đặc quyền đều bị hủy bỏ trong cuộc Cách mạng Pháp, thay vào đó là hai đạo luật Cách mạng năm 1791 và 1793 công nhận quyền sở hữu tự nhiên đổi với tác phẩm văn học nghệ thuật. Thời gian bảo hộ QTG là suốt cuộc đời tác giả và 10 năm sau khi tác giả qua đời (từ năm 1866 là 50 năm sau khi tác giả qua đời).1 Thuyết quyền SHTT có ý nghĩa giúp phân biệt bản thảo của tác phẩm (vật thể hữu hình) với tác phẩm (sản phẩm vô hình) và đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa tác giả với tác phẩm. Như vậy, QTG đà hình thành và phát triển dựa trên ý niệm về quyền sở hữu, lúc đầu là quyền sở hữu đối với vật thể chứa đựng tác phẩm, sau đó quyền của chủ thể sáng tạo mới được ghi nhận độc lập với quyền sở hữu vật chất hữu hình chứa đựng tác phẩm.
Khái niệm ỌTG chỉ xuất hiện khi được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Thuật ngữ “QTG” trong tiếng Anh sử dụng từ “copyright” (có nghĩa là quyền sao chép); tiếng Pháp là “droit d'auteur” (có nghĩa là QTG) và tiếng Đức là “Urheberrecht” (có nghĩa là bản quyền). Sở dĩ có cách sử dụng thuật ngữ khác nhau như vậy vì trên thế giới hiện nay tồn tại những cách tiếp cận khác nhau đối với khái niệm QTG cũng như đôi với chú thể được bảo hộ QTG. Tùy thuộc vào cách tiếp cận, pháp luật QTG của các quốc gia trên thế giới theo hai hệ thống: châu Âu lục địa (Droit d’Auteur - System) và hệ thống Anh - Mỹ (Copyrights - System).2
Xuất phát từ Lý thuyết về quyền sở hữu của nhà xuất bản được khởi xướng ở Anh vào năm 1556 với tên gọi “owner of copyright”, các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (án lệ) sử dụng thuật ngữ “Copyright” để chỉ ỌTG. “Copyright” theo nghĩa đen là quyền sao chép. Lúc đầu, thuật ngữ này dùng để chỉ độc quyền sao chép nhân bản tác phẩm, sau đó nó ngày càng được sử dụng phổ biến ở Anh, Mỹ và những quốc gia sử dụng tiếng Anh theo nghĩa rộng hơn là QTG (hay được dịch là “bản quyền”) - các quyền đối với sản phẩm sáng tạo dưới dạng tác phẩm. Cách tiếp cận của các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (án lệ) xuất phát từ quan niệm, sản phẩm trí tuệ sè thuộc sở hữu tuyệt đối của người tạo ra nó nên các nước này thiên về ghi nhận và bảo hộ các quyền lợi kinh tế (mà trọng tâm là quyền sao chép tác phẩm) của người sở hữu ỌTG (copyright owner). Hệ thống luật ỌTG Anh - Mỹ coi tác phẩm như một thứ hàng hóa trên thị trường, vì vậy hệ thống này hướng tới việc bảo vệ những người phải chịu rủi ro về mặt kinh tế khi khai thác, sử dụng tác phẩm - đó là chủ sở hữu tác phẩm, như người sử dụng lao động, công ti khai thác tác phẩm... Vì vậy, trong hệ thống luật Anh-Mỹ, các quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tác phẩm thường không dành cho tác giả (ví dụ: nhà văn) mà lại dành cho những người khai thác các quyền này về mặt kinh tế (ví dụ: nhà xuất bản).
Các quốc gia theo hệ thống châu Âu lục địa (Luật hành văn) như Pháp, Đức hoặc một số quốc gia châu Âu khác sử dụng thuật ngừ “author’s right” (QTG) để chỉ các quyền đối với tác phẩm - sản phẩm sáng tạo trí tuệ. Hệ thống luật QTG châu Âu lục địa căn bản dựa trên luận thuyết về quyền tự nhiên của sở hữu tinh thần, theo đó chỉ có tác giả mới có các quyền trực tiếp đối với sản phẩm sáng tạo là thành quả công sức lao động của mình. Hệ thống này coi tác giả là trung tâm của hệ thống bảo hộ và dồn trọng tâm bảo vệ vào quyền của người sáng tạo tác phẩm với việc kháng định người sáng tạo có các quyền đối với tác phẩm. đặc biệt là các quyền tinh thần (moral rights) các tác giả. được chú trọng và đặc biệt báo vệ. Từ các quyền nhân thân do sè ghi nhận và bảo hộ một số quyền tài sản cho tác giả.
Du theo cách tiếp cận nào thi các quốc gia trên thế giới đều thống nhất ờ điểm chung ỌTG là phạm vi các quyển (bao gồm cả quyền nhân thân. và quyền tài sản) của chủ thế (bao gồm tác giả và chủ Sở hữu ỌTG đối với tác phẩm của họ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. ỌTG là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc được sở hữu.
QTG thưởng được xem xét theo ba góc độ sau đáy:
Về góc độ khách quan: QTG là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc tạo ra Ví sử dụng các tác phẩm văn học. nghệ thuật, khoa học. qua đó xác nhận các quyền của tác giả chủ sở hữu QTG, xác định nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, đồng thời quy định trình tự và phương thức bảo hộ các quyền đó khỏi hành vi xâm phạm.
Vé góc độ chủ quan: ỌTG là phạm vi các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu ỌTG đối với tác phẩm văn học. nghệ thuật khoa học do họ tạo ra hoặc được sở hữu.
Về góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự: là quan hệ xã hội giữa tác giả chủ sở hữu ỌTG với các chủ thể khác trong xã hội ứkr.g ọaa tác phẩm được sự tác động của các quy phạm pháp luật về OTG hệ nay thể hiện chi có tác gia, chủ sở hữu ỌTG mới có các quyền đối với tác phẩm và các chủ thể khác đều có nghĩa vụ tôn trọng các quyền của tác giả, người sở hữu tác phẩm.
Trong đó, chủ thể của QTG là tác giả và chủ sở hữu QTG. Khách thể của QTG là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do tác giả sáng tạo ra băng lao động trí tuệ. Nội dung của QTG là các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu QTG đối với tác phẩm.
2- Đặc điểm của quyền tác giả
Với tư cách là một bộ phận của quyền SHTT, ỌTG cũng mang những đặc điểm chung của quyên SHTT như: đối tượng của ỌTG là sản phẩm của hoạt động sáng tạo trí tuệ, mang đặc tính vô hình; ỌTG bị giới hạn về không gian, về thời gian, vé nội dung bảo hộ đế cân bằng với lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Bên cạnh đó, QTG mang những đặc trưng riêng đê có thẻ phân biệt với các bộ phận khác của quyền SHTT như quyển SHCN hay quyền đối với giống cây trồng.
Thứ nhất, đối tượng của QTG lả sản phẩm của hoạt động sáng tạo tinh thần
Đối tượng của quyền SHTT thường là sản phẩm của hoạt động sáng tạo, tuy nhiên đối tượng của QTG va quyên SHCN vẫn có sự khác biệt nhất định. Các đối tượng quyền SHCN được tạo ra luôn hướng tới mục đích ứng dụng cóng nghiệp hoặc thương mại. Nhóm đối tượng SHCN là các giải pháp kỹ thuật thi sự sáng tạo thiên về tính kỹ thuật. Nhóm chỉ dẫn thương mại như nhãn hiệu, TTM, CDĐL lại thương là thành quả của quá trình đầu tư và không cần tính sáng tạo. Trong khi đó, lĩnh vực sáng tạo của ỌTG chủ yếu thiên về văn hóa, nghệ thuật để thỏa mãn nhu cầu tinh thần và nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học. Hơn nữa, tác phẩm - đối tượng của QTG phản ánh tư tưởng, tình cảm, phong cách, nhãn sinh quan... của người sáng tác, do đó nó thương chứa đựng một nội dung tinh thán nhất định. .Mặc dù các tác giả có thể trùng hợp về ý tưởng dẫn đến các tác phẩm mang cùng một chu đé, nội dung nhưng cách thể hiện tác phẩm của mỗi tác giả sẽ khác nhau vì tác phẩm là sự thể hiện tính thán của tác giả. Nói cách khác, tác phẩm la sáng tạo tinh thần thể hiện dấu ấn sáng tạo riêng của tác giả.
Thừ hai. QTG được xác lập tự động
ỌTG phát sinh một cách mặc nhiên, không phụ thuộc vào bất kì thể thức, thủ tục nào. Khi một tác phẩm đã được định hình dưới hình thức nhất định để người khác có thể nhận biết được thì tác gia, chủ sở hữu QTG đương nhiên sè có các QTG đối với tác phẩm đó và các quyền này được pháp luật ghi nhận, bảo hộ mà không cần phải thông qua việc đăng ký QTG. Mặc dù pháp luật QTG có quy định về việc đăng ký QTG nhưng việc đăng ký không phải là căn cứ để xác lập QTG mà chi là một thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi nhận các thông tin về tác giả, tác phàm, chủ sở hữu QTG theo yêu cầu của chủ thể QTG. Giấy chứng nhận đăng ký QTG do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chi có giá trị chứng cứ khi cân chứng minh QTG. Điều này hoàn toàn khác với “văn bằng bảo họ’' đối tượng SHCN có giá trị ghi nhận phạm vi, thời hạn bảo hộ quyền SHCN. Pháp luật QTG trên thế giới đều quy định về việc bảo hộ tự động đối với ỌTG nhưng việc bảo hộ chỉ phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm đã được thế hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định mà người khác có thể nhận biết và tiếp cận được tác phẩm. Việc bảo hộ không được đặt ra khi tác phẩm mới chỉ nằm trong ý tưởng của nhà sáng tạo.
Thứ ba, QTG chỉ bảo hộ về hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo hộ ý tưởng sáng tạo
Các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học chi có ý nghĩa khi công chúng có thể tiếp cận được nó, nên QTG chi được pháp luật bảo hộ khi tác phẩm được thể hiện thông qua hình thức nhất định đế có thể nhận biết, xác định được tác phẩm. Hoạt động sáng tạo luôn cán đến nguồn chất liệu như: các ý tưởng, thông tin, các sản phẩm văn hoá của nhân loại, các chất liệu khác từ tự nhiên hay cuộc sống xã hội. Nguồn chất liệu này, trong đó có các ý tưởng, chủ đề có thể coi là kho tài sản chung của xã hội và mọi người đều có thể khai thác tự do, vì vậy nó không thuộc phạm vi bảo hộ QTG. Từ nguồn chất liệu chung đó, tác giả sử dụng các công cụ như ngôn ngữ, âm thanh, hình ảnh, màu sắc..., bổ sung thêm những chất liệu của riêng mình như tư tưởng, tình cảm, tinh thần để tạo nên tác phẩm. Do đó, ỷ tướng, chủ đề sáng tác có thể trùng nhau nhưng hình thức thể hiện tác phẩm của mồi tác giả thì không thể hoàn toàn giống nhau vì quá trình sáng tạo tuỳ thuộc vào việc tác giả sử dụng chất liệu, công cụ như thế nào, tuỳ thuộc vào khả năng, sở trường, sự đầu tư trí tuệ, công sức... của môi tác giả. Vì vậy, pháp luật chỉ bảo hộ QTG đối với hình thức thể hiện tác phẩm mà hoàn toàn không bảo hộ chủ đề, tư tưởng trong tác phẩm.
Tuy nhiên, đối với các ý tưởng liên quan đến các giải pháp kỹ thuật, chủ thể sáng tạo có thể được bảo hộ độc quyền khi thể hiện giải pháp kỹ thuật đó dưới dạng bản mô tả sáng chế hay KDCN và nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền SHCN. Cơ chế bảo hộ quyền SHCN trao cho chủ sở hữu độc quyền khai thác ý tưởng sáng tạo kỹ thuật, khác với cơ chế bảo hộ QTG chỉ trao cho tác giả các quyền nhân thân, tài sản liên quan tới việc sử dụng hình thức của tác phẩm. Ví dụ: giải pháp kỹ thuật được bảo hộ QTG khi được thể hiện dưới dạng bản báo cáo khoa học và tác giả, chủ sở hữu QTG được hưởng QLQ đến việc sử dụng hình thức thể hiện của bản báo cáo khoa học mà không bảo hộ ý tưởng của giải pháp khoa học đó.
Luật sư Nguyễn Thị Bích Phượng - Trưởng chi nhánh Hà Nội Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác)



TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm