Khái niệm, đặc điểm và bản chất chứng khoán
1-Định nghĩa chứng khoán
Việc định nghĩa chứng khoán có thể khác nhau nhất định ở từng quốc gia, tùy theo mục đích khi điều chỉnh loại tài sản đặc biệt này. Theo Black Law's Dicitionary, chứng khoán được hiểu là công cụ chứng minh quyền sở hữu công ty, quyền chủ nợ với công ty hoặc chính phủ hoặc các quyền khác của người nắm giữ. Điều 2 Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán Nhật Bản quy định tới 11 loại khác nhau; trong khi đó, Điều 1 Luật Chứng khoán Hoa Kỳ năm 1993 không xác định thế nào được coi là chứng khoán mà xác định các trường hợp sẽ không được coi là chứng khoán (điều này có nghĩa, số lượng các loại chứng khoán sẽ do chính thực tiễn quyết định).
Ở Việt Nam, pháp luật hiện hành quy định: "Chứng khoản là tài sản, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu kí;
c) Chứng khoán phái sinh;
d) Các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định"
Các xác định hiện hành là sự kế thừa, phát triển của quá trình hình thành các phương tiện huy động vốn. Giai đoạn đầu của chặng đường đổi mới, pháp luật Việt Nam công nhận chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu (tại Luật công ty năm 1990, các văn bản pháp luật quy định về phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp). Từ năm 1998, bằng việc ban hành Nghị định số 48/1998.NĐ-CP ngày 07/11/1998, xuất hiện thêm loại chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán. Từ năm 2010, luật chứng khoán thừa nhận thêm loại hình chứng khoán mới đó là hợp đồng góp vốn đầu tư. Luật Chứng khoán 2019 xác định chứng khoán vừa dưới dạng xác định bản chất pháp lí, vừa mang tính liệt kê mở.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest
2-Đặc điểm của chứng khoán
[a] Tính sinh lời
Tính sinh lời thể hiện ở việc người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu chứng khoán khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Tính sinh lời của chứng khoán là động lực thúc đẩy người đầu tư mua chứng khoán và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Tính sinh lời còn xuất hiện khi người nắm giữ chứng khoán giao dịch chứng khoán như loại tài sản được phép. Nếu chỉ dừng lại ở tính sinh lời thi cơ hội đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư chưa đạt được.
[b] Tính thanh khoản
Tính thanh khoản được hiểu là khả năng cho phép người sở hữu chứng khoán có thể bán chứng khoán để nhận được khoản tiền nhất định. Đặc điểm này tạo cho người sở hữu chứng khoán chuyển đổi dạng tài sản từ chứng khoán sang tiền thông qua giao dịch tại thị trường chứng thứ cấp hoặc thông qua nghiệp vụ ngân hàng. Tính thanh khoản tạo ra sự hấp dẫn đối với người đầu tư, thỏa mãn nhu cầu của họ đồng thời cũng hạn chế rủi ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của chứng khoán. Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát hành, vào chi phí chuyển đổi và sự biến động của thị trường.
[c] Tính rủi ro
Tính rủi ro của chứng khoán, thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầu tư vốn. Cũng như bất kỳ hoạt động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh chứng khoán là "đầu tư lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai" thì cả quãng thời gian đó cũng chính là thời gian chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tàng đến đâu còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thời gian đầu tưm chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới độ rủi ro. Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực thương mại của Công ty Luật TNHH Everest
3-Bản chất của chứng khoán
Chứng khoán xuất hiện do nhu cầu của các giao dịch vốn giữa các chủ thể. Bên cạnh đó, chứng khoán cũng liên quan đến việc hưởng lợi của "người" đang nắm giữ chúng. Vì vậy, cần phải xem xét bản chất chứng khoán dưới góc độ kinh tế và dưới góc độ pháp lí.
[a] Góc độ kinh tế
Theo phương diện kinh tế, chứng khoán được coi là loại tư bản giả. Điều này có nghĩa, lượng vốn (tư bản thật) đã được nhà đầu tư (người nắm giữ chứng khoán) chuyển cho các tổ chức phát hành và họ chỉ nắm giữ những phương tiện thể hiện có một lượng tư bản đang tồn tại thực tế mà thôi. Xác định chứng khoán là tư bản giả cũng có nghĩa, các nguồn vốn được tích tụ tập trung bởi các nhà phát hành đều hướng tới mục tiêu đầu tư, mục tiêu kinh tế nhất định; điều này hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc hoạt động tài chính của các chủ thể trong xã hội đương đại cũng như trong các thời kì trước đây.
[b] Góc độ pháp lí
Theo phương diện pháp lí, chứng khoán là loại tài sản với đầy đủ đặc tính của nó. Từ khi xuất hiện, do tự phát hay tự giác, chứng khoán đã được công nhận là một loại tài sản, với những đặc điểm là "giấy tờ có giá". Người sở hữu chứng khoán có thể chuyển nhượng, kiếm lợi, tặng cho...chứng khoán như bất kì loại tài sản nào khác. Điều này không mâu thuẫn với việc có những loại chứng khoasnm khả năng được sở hữu, chuyển nhượng bị hạn chế, cũng giống như bất kì loại tài sản nào, trong những trường hợp đặc biệt, việc sở hữu, chuyển nhượng, kể cả các tài sản hữu hình cũng có hạn chế nhất định. Khoản 1 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019 đã ghi nhận rõ bản chất pháp lí này của chứng khoán.
Việc xác định bản chất của chứng khoán có ý nghĩa pháp lí quan trong. Ở góc độ pháp lí kinh tế, các đối tượng có liên quan sẽ quan tâm tới hiệu quả việc vận hành các nguồn tư bản thật để quyết định có tiếp tục hay không việc nắm giữ các tư bản giả, đầu tư lượng tư bản của mình vào các tổ chức phát hành nào là hữu ích...Dưới góc độ pháp lí, xác định chứng khoán là tài sản cũng đồng nghĩa với việc áp dụng các chế độ tài sản khác và các chế định có liên quan đối với đối tượng này cho phù hợp.
Xem thêm: Về Công ty Luật TNHH Everest
4-Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Khái niệm, đặc điểm và bản chất chứng khoán được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Khái niệm, đặc điểm và bản chất chứng khoán có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm