Khái quát chung về thẩm quyền dân sự của tòa án

06/03/2023
Tạ Thị Thu Hoà
Tạ Thị Thu Hoà
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp chủ yếu. Toà án thực hiện thẩm quyền của mình trong việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và các việc khác theo quy định của pháp luật để bảo vệ pháp luật, bảo đảm sự công bàng xã hội. Việc nghiên cứu để đưa ra khái niệm khoa học về thẩm quyền của toà án và thẩm quyền dân sự của toà án có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng và thực hiện các quy định về thẩm quyền của toà án.

I- KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN

1- Khái niệm thẩm quyền dân sự của toà án

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin thì mỗi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do pháp luật quy định được hiểu là thẩm quyền của các cơ quan nhà nước đó. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp chủ yếu. Toà án thực hiện thẩm quyền của mình trong việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và các việc khác theo quy định của pháp luật để bảo vệ pháp luật, bảo đảm sự công bàng xã hội. Việc nghiên cứu để đưa ra khái niệm khoa học về thẩm quyền của toà án và thẩm quyền dân sự của toà án có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng và thực hiện các quy định về thẩm quyền của toà án.

Trong tiếng Việt, thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật. Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Ở một số nước trên thể giới, thuật ngữ này cũng được sử dụng với nghĩa tương tự. Chẳng hạn, trong từ điển luật học của Pháp, thuật ngữ thẩm quyền (competence) được hiểu là khả năng mà pháp luật trao cho cơ quan công quyền (autorite publique) hoặc cơ quan tài phán (juridiction) thực hiện công việc nhất định hoặc thẩm cứu và xét xử một vụ kiện. Trong từ điển luật học của Mỹ, thẩm quyền được hiểu là một khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật. Điểm chung về thẩm quyền của toà án đều được các nước thừa nhận là quyền xem xét giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó. Quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó là hai nội dung quan trọng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của toà án.

Trên thế giới, về cơ bản các nhà lý thuyết về tố tụng của các nước theo hệ thống châu Âu lục địa và các nước theo hệ thống Anh - Mỹ đều đề cập vấn đề thẩm quyền của toà án trong tố tụng dân sự dưới hai góc độ là thẩm quyền theo loại việc và thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ. Theo cách tiếp cận này, thẩm quyền của toà án được hiểu là khả năng của toà án trong việc xem xét giải quyết một vụ kiện căn cứ vào bản chất của vụ việc (thẩm quyền theo loại việc) cũng như căn cứ vào phạm vi lãnh thổ (thẩm quyền theo lãnh thổ).

Ở Việt Nam, xuất phát từ những đặc thù về tổ chức hệ thống toà án cho nên quan niệm về thẩm quyền của toà án trong tố tụng dân sự cũng có những điểm khác biệt. Khái niệm về thẩm quyền của toà án được tiếp cận dưới ba góc độ là thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của toà án các cấp và thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ. Trên cơ sở đó, thẩm quyền dân sự của toà án được định nghĩa như sau:

Thẩm quyền dân sự của toà án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của toà án.

Khác với thẩm quyền xét xử hành chính và thẩm quyền xét xử hình sự của toà an, thẩm quyền dân sự của toà án có những đặc trưng sau:

- Toà án nhân danh quyền lực nhà nước, độc lập trong việc xem xét giải quyết và ra các phán quyết đổi với các vụ việc phát sinh từ các quan hệ mang tính tài sản, nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận giữa các chủ thể với nhau;

- Thẩm quyền dân sự của toà án. được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Do vậy, ngoài việc tuân thử các nguyên tắc chung về tố tụng như toà án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo sự vô tư, khách quan v.v. thì toà án khi xem xét giải quyết các vụ việc dân sự phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự. Phạm vi xem xét giải quyết và quyền quyết định của toà án được giới hạn bởi những yêu cầu mà đương sự đưa ra cũng như trên cơ sở sự thoả thuận của họ về những vấn đề có tranh chấp.

2- Ý nghĩa việc xác đnh thẩm qnyền dân sự của toà án

Việc xác định thẩm quyền giữa các toà án một cách hợp lý, khoa học tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giũa toà án với các cơ quan nhà nước, giữa các toà án với nhau, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho toà án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự, nâng cao được hiệu quả của việc giải quyết vụ việc dân sự. Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giữa các toà án một cách hợp lý, khoa học còn tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước toà án, giảm bớt những phiền phức cho đương sự.

Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền của các toà án một cách hợp lý và khoa học còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ ở mỗi toà án và các điều kiện khác, trên cơ sở đó có kế hoạch đáp ứng bảo đảm cho toà án thực hiện được chức năng, nhiệm vụ.

II- THẦM QUYỀN DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN THEO LOẠI VIỆC

1- Cơ sở xác định những loại việc thuộc thẩm quyền dân sự của toà án

Thẩm quyền dân sự của toà án theo loại việc là thẩm quyền của toà án trong việc thụ lý giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 LTCTAND năm 2014, Điều 1 BLTTDS thì toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án và các việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền theo loại việc của toà án phân định thẩm quyền của toà án với thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức khác trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đời sổng xã hội; phân định thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các loại việc theo thủ tục tố tụng dân sự với thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các loại việc theo thủ tục tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Việc xác định thẩm quyền của toà án theo loại thủ tục tố tụng nào phải căn cứ vào tính chất của loại quan hệ pháp luật nội dung mà toà án cần giải quyết. Thông thường, các nhóm quan hệ pháp luật nội dung có cùng tính chất sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của từng ngành luật nội dung riêng biệt. Chẳng hạn, các quan hệ pháp luật hình sự được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của ngành luật hình sự, các quan hệ pháp luật hành chính được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của ngành luật hành chính, các quan hệ pháp luật dân sự được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của ngành luật dân sự V.V.. Các vụ việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật nội dung có cùng tính chất này sẽ thuộc thẩm quyền của toà án theo các thủ tục tố tụng tương ứng như thủ tục tố tụng hình sự, tố tụng hành chính và tố tụng dân sự.

Ở Việt Nam, các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật khác nhau như BLDS, BLLĐ, LTM, LHN&GĐ V.V.. Tuy nhiên, các quan hệ pháp luật này đều có cùng tính chất là các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận và tự định đoạt của các chủ thể. Do vậy, các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật này phải thuộc thẩm quyền dân sự của toà án, được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Đổi với các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật hành chính thì không thuộc thẩm quyền dân sự của toà án vì chúng không có cùng tính chất với các quan hệ trên.

Xét về nguyên tắc, những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động sẽ thuộc thẩm quyền dân sự của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự. Do vậy, đối với những việc phát sinh từ quan hệ pháp luật này chưa được BLTTDS quy định thuộc thẩm quyền của toà án thì cần được quy định bổ sung trong các văn bản pháp luật khác để tránh tình trạng vụ việc nảy sinh trên thực tế nhưng không được cơ quan nào giải quyết. Tuy nhiên, căn cứ vào những đặc thù của một sổ loại tranh chấp cũng như yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp đó mà pháp luật có những quy định mang tính ngoại lệ trong việc xác định thẩm quyền dân sự của toà án. Ví dụ: Đổi với các yêu cầu về giải quyết phá sản doanh nghiệp không thuộc thẩm quyền dân sự của toà án.

Ngoài ra, trong một số trường hợp để giảm bớt áp lực về công việc của ngành toà án, đồng thời xuất phát từ những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp và tính chất của vụ việc cần được giải quyết v.v. pháp luật quy định toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết sau khi vụ việc đã được các cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước hoặc đương sự đã yêu cầu nhưng cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định. Ví dụ: Đổi với một số tranh chấp quyền sử dụng đất, toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết khi đã được hoà giải tại uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc đổi với một sổ tranh chấp về lao động thì toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã tiến hành hoà giải hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định V.V..

2- Những loại việc thuộc thẩm quyền dân sự của toà án

Những loại việc dân sự thuộc thẩm quyền của toà án bao gồm các vụ án dân sự và các việc dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các việc khác do pháp luật quy định. Hiện nay, các vụ việc thuộc thẩm quyền dân sự của toà án được quy định tại các điều từ Điều 26 đến Điều 33 BLTTDS năm 2015 và một sổ điều luật của các văn bản pháp luật khác. Theo đó, toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự sau:

a. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự

Về nguyên tắc, toà án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự đối với những vụ việc dân sự phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự do pháp luật dân sự điều chỉnh. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án bao gồm những loại việc sau:

- Các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.

- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và các quyền khác đối với tài sản.

Các tranh chấp về quyển sở hữu tài sản thuộc thẩm quyền của toà án bao gồm các tranh chấp về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Trong trường họp đổi tượng của việc tranh chấp ỉà các vật khác nhau của thể giới vật chất nhưng không phải là tài sản theo quy định của pháp luật dân sự thì toà án không có thẩm quyền thụ lý giải quyết.

- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ

Khác với tranh chấp về quyền sở hữu đổi với tài sản là động sản và bất động sản, các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền dân sự của toà án bao gồm tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Ngoài ra, các tranh chấp về hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng thuộc thẩm quyền của toà án. Đối với các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ mà cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận thì được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại.

Khi giải quyết tranh chấp này toà án có thẩm quyền buộc bên vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, thực hiện các cam kết trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, huỷ bỏ hợp đồng hoặc buộc bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra.

- Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự

Toà án có thẩm quyền thụ lý giải quyết đối vói các tranh chấp về giao dịch dân sự và về hợp đồng dân sự phát sinh từ việc giao kết, thực hiện, sửa đổi và chấm dứt hợp đồng. Ngoài ra, toà án cũng có thẩm quyền giải quyểt các tranh chấp phất sinh từ các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như cầm cố, thể chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, phạt vi phạm.

Hiện nay, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động đều thuộc thẩm quyền của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, cũng cần phải phân biệt giữa tranh chấp hợp đồng dân sự với hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động. Việc phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định luật nội dung được áp dụng để giải quyết tranh chấp, thời hiệu khởi kiện cũng như án phí mà các bên phải chịu.

- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Đây là tranh chấp về thiệt hại xảy ra mà trước độ, người bị thiệt hại và người gây thiệt hại không có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại xảy ra không có liên quan tới hợp đồng giữa các bên. Ví dụ: Yêu cầu bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra V.V..

- Tranh chấp về thừa kế tài sản

Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về thừa kể như yêu cầu toà án buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản hoặc yêu cầu chia di sản thừa kế (theo pháp luật hoặc theo di chúc), xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.

- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật

Các tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí bao gồm nhiều loại. Tuy vậy, chỉ những tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của toà án như tranh chấp về việc không đăng bài cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân, tranh chấp về bồi thường thiệt hại do báo chí đăng tin không đúng gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức v.v. thì toà án mới được thụ lý giải quyết. Các loại tranh chấp này đã được quy định tại Điều 9 Luật báo chí ngày 28/12/1989 và Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí ngày 12/6/1999.

- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai

Quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt. Do vậy, các tranh chấp về quyền sử dụng đất thực chất cũng là một dạng của tranh chấp về tài sản. Quyền sử dụng đất được coi là tài sản và được pháp luật bảo hộ nếu như người sử dụng đất có đủ giấy tờ cần thiết chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của mình. Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đẩt hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đẩt. Đối với trường hợp tranh chấp đất đai mà đương sự không có một trong các giấy tờ trên thì đương sự có thể lựa chọn yêu cầu uỷ ban nhân dân giải quyết hoặc khởi kiện tại toà án.

- Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

Văn bản công chứng bao gồm, hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng. Trong trường hợp giữa người yêu cầu công chứng và công chửng viên, tổ chức hành nghề công chứng có tranh chấp liên quan đến hoạt động hành nghề công chứng thì các bên có quyền khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp đó. Các tranh chấp giữa các bên liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chửng vô hiệu có bản chất là tranh chấp dân sự sẽ thuộc thẩm quyền dân sự của toà án.

- Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Thực chất đây là trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản bị cưỡng chế để thi hành án. Tranh chấp này có thể nảy sinh giữa người phải thi hành với các đồng sở hữu chủ khác hoặc người thứ ba liên quan đến tài sản bị cưỡng chế kê biên. Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của chấp hành viên về việc cưỡng chế kê biên thì chủ sở hữu chung hoặc người thứ ba có tranh chấp về tài sản kê biên có quyền khởi kiện yêu cầu toà án xác định quyền sở hữu, sử dụng của họ. Hết thời hạn trên mà các chủ thể có tranh chấp không khởi kiện thì tài sản đã kê biên được xử lí theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.

- Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự

Việc bán tài sản kê biên để thi hành án dân sự tuỳ trường hợp sẽ được bán thông qua hình thức bán đấu giá hoặc bán không qua thủ tục bán đấu giá. Trong trường hợp tổ chức bán đấu giá hoặc chấp hành viên bán đấu giá tài sản để thi hành án thì tranh chấp về kết quả bán đấu giá, về thanh toán chi phí đăng ký mua tài sản đấu giá sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.

- Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.

- Tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.

- Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

Xét về về bản chất thì đây là trường hợp giữa người yêu cầu công chứng và công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng không có tranh chấp mà chỉ yêu cầu tuyên bổ vãn bản công chứng vô hiệu do không thoả mãn các điều kiện có hiệu lực của văn bản công chứng. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 52 Luật công chứng năm 2014 thì công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người có quyên, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật. Theo quy định tại khoản 6 Điều 27 BLTTDS năm 2015 thì yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thuộc thẩm quyền về dân sự của toà án.

- Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự

Trên đây, chúng ta đã xét tới thẩm quyền dân sự của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Theo quy định tại Điều 27 BLTTDS năm 2015 thì các yêu cầu về xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự cũng thuộc thẩm quyền về dân sự của toà án. Tuy nhiên, về bản chất thì đây là các việc dân sự do các bên đương sự không có tranh chấp về quyền lợi mà chỉ yêu cầu toà án xác định hoặc phân chia tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật.

- Việc xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Các việc liên quan đến xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân, toà án có thẩm quyền thụ lý giải quyết gồm có yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

- Các việc liên quan đến sự vắng mặt của cá nhân tại nơi cư trú

Các loại việc liên quan đến sự vắng mặt của một cá nhân tại nơi cư trú mà toà án có thẩm quyền thụ lý giải quyết bao gồm yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết; huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết.

- Yêu cầu công nhận kết quả hoà giải thành ngoài toà án;

- Yêu cầu công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam.

- Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình

Về nguyên tắc, hầu hết các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình do Luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh đều thuộc thẩm quyền dân sự của toà án. Toà án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự những vụ việc về hôn nhân và gia đình sau đây:

- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn;

- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;

- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;

- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.

Hiện nay, toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ. Tuy nhiên, đối với các yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con tự nguyện, không có tranh chấp, không thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án. Trong trường hợp này, đương sự có thể yêu cầu cơ quan hộ tịch giải quyết theo thủ tục đăng ký hộ tịch.

- Tranh chấp về cấp dưỡng;

Toà án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà nội, ngoại và cháu; giữa vợ và chồng khi ly hôn mà các bên không thoả thuận được.

- Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;

- Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi huỷ kết hôn trái pháp luật;

- Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật;

- Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thoả thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;

- Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;

- Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;

- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;

- Yêu cầu tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng ;

- Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình;

- Yêu cầu công nhận thoả thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Toà án;

- Yêu cầu tuyên bố vô hiệu thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình;

- Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

b.Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại

Các vụ việc phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại rất đa dạng và phức tạp, các bên có thể lựa chọn phương thức giải quyết bằng con đường trọng tài hoặc khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết. Đối với trường họp các bên có thoả thuận trọng tài thì các vụ việc này sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại. Toà án có thẩm quyền thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nếu các bên không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài bị vô hiệu. Theo đó, toà án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự các tranh chấp về kinh doanh, thương mại sau:

- Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận ;

- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;

- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.

Cùng với ba loại việc nói trên, toà án còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

Ngoài ra, toà án cũng có thẩm quyền thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự các việc về kinh doanh, thương mại như yêu cầu huỷ bỏ nghị quyết của đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp; yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam; các việc liên quan đển trọng tài thương mại Việt Nam như yêu cầu chỉ định, thay đổi trọng tài viên; yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp; yêu cầu huỷ quyết định trọng tài V.V..

c. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật lao động

Về nguyên tắc, toà án có thẩm quyền giải quyết những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật lao động do pháp luật lao động điều chỉnh. Các vụ việc về lao động thuộc thẩm quyền cùa toà án bao gồm các tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp ỉao động tập thể, các tranh chấp liên quan đến lao động và các yêu cầu về lao động. Đối với các tranh chấp lao động cá nhân, toà án có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp tranh chấp đó đã được hoà giải viên lao động hoà giải không thành hoặc hoà giải thành thành nhưng các bên không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không hoà giải trong thời hạn do pháp luật quy định.

Tuy nhiên, đổi với một số tranh chấp lao động cá nhân toà án có thẩm quyền thụ lý giải quyết ngay mà không nhất thiết phải qua hoà giải. Đó là các tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chẩm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp về bồi thường thiệt hại, về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; tranh chấp về bảo hiểm xã hội; về bảo hiểm y tể theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo họp đồng.

Các tranh chấp lao động tập thể bao gồm các tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Các tranh chấp lao động tập thể về quyền thuộc thẩm quyền dân sự của toà án bao gồm tranh chấp về việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, nội quy lao động đã được đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế, thoả thuận họp pháp khác ở doanh nghiệp đã được chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà tập thể người lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý hoặc chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.

Ngoài các tranh chấp lao động cá nhân và tập thể nói trên, toà án còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp; các tranh chấp liên quan đến lao động như tranh chấp về học nghề, tập nghề; tranh chấp về cho thuê lại lao động; tranh chấp về quyền công đoàn, kinh phí công đoàn; tranh chấp về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thẩm quyền của toà án đối với những yêu cầu về lao động, bao gồm yêu cầu tuyên bổ hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể vô hiệu; yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công.

d. Yêu cầu công nhận hoặc không công nhận các bản án quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài

Ngoài các vụ việc dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được đề cập ở trên, toà án còn có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các bản án quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài hoặc không công nhận các bản án, quyết định của toà án nước ngoài sau đây:

- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, ỉao động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của toà án nước ngoài.

- Yêu cầu hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.

- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại, lao động của trọng tài nước ngoài.

 

0 bình luận, đánh giá về Khái quát chung về thẩm quyền dân sự của tòa án

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.55912 sec| 1088.781 kb