Luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống pháp luật Việt Nam

18/10/2024
Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng
Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia xã hội chủ nghĩa, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thể chế hóa nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình về những lợi ích nhân thân và những lợi ích về tài sản.

1- Khái niệm Luật Hôn nhân và gia đình

Khái niệm “Luật Hôn nhân và gia đình” có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: (a) là một ngành luật, (b) là một môn học, (c) là một bộ phận của khoa học pháp lý, (d) là một văn bản pháp luật cụ thể. 

[a] Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một ngành luật

Đây là sự phân loại dựa vào cấu trúc bên trong của hệ thống pháp luật. Sự phân loại này chủ yếu có ý nghĩa học thuật.

Khác với các nước theo hệ thống pháp luật chung (Common law), các nước theo hệ thống pháp luật lục địa (trong đó có Việt Nam) phân chia hệ thống pháp luật quốc gia thành những ngành luật khác nhau dựa vào các nhóm quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh (đối tượng) và phưong thức mà nó tác động lên các quan hệ xã hội đó (phương pháp điều chỉnh). Sự phân chia như vậy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, nhằm điều chỉnh pháp luật tốt hơn đối với từng lĩnh vực xã hội riêng biệt. Tuy nhiên, sự phân chia đó cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong hệ thống pháp luật châu Âu, luật gia đình không phải là ngành luật độc lập mà chỉ là một chế định, một bộ phận của luật dân sự.

Với ý nghĩa là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia xã hội chủ nghĩa, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thể chế hóa nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình về những lợi ích nhân thân và những lợi ích về tài sản.

[b] Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một môn học

Là hệ thống những khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang tính chất lý luận về hôn nhân và gia đình và thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật hôn nhân gia đình.

[c] Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một bộ phận pháp luật: pháp luật về hôn nhân và gia đình

Pháp luật về hôn nhân và gia đình là một khái niệm tích hợp bởi khái niệm “pháp luật” với khái niệm “hôn nhân và gia đình”

[d] Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể

Cần phân biệt Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một ngành luật với Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể. Văn bản pháp luật cụ thể là kết quả của công tác hệ thống hóa pháp luật, xây dựng pháp luật, trong đó chứa đựng những quy phạm của nhiều ngành luật, tuy nhiên, nội dung chủ yếu là quy phạm của một ngành luật cơ bản nào đó. Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014... Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một ngành luật chỉ gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội giữa các thành viên gia đình: vợ và chồng, cha mẹ - các con, anh, chị, em... về những lợi ích thân nhân và nhũng lợi ích về tài sản.

Đối với những quan hệ thân nhân và tài sản, những phát sinh giữa các cơ quan nhà nuớc, tổ chức xã hội với các thành, viên của gia đình mặc dù nhằm củng cố gia đình, đều do các hgành luật khác điều chỉnh. Mặt khác, cũng chỉ những quan hệ thân nhân và quan hệ tài sản đặc thù mới thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest

2- Vị trí của Luật hôn nhân và gia đình

Vấn đề đặt ra cho khoa học pháp lý là xác định vị trí của các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống các ngành luật. Trong thực tế, các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản cũng là đối tượng điềư chỉnh của Luật dân sự và một số ngành luật khác. Vậy, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh giữa các thành viên trong gia đình có tạo thành một ngành luật độc lập hay không? Hay chúng chỉ hợp thành một bộ phận, một chế định riêng biệt của Luật dân sự?  

Quan điểm thứ nhất, là quan điểm của các chuyên gia nghiên cứu ở nước ta cũng như các nước khác chưa có sự thống nhất về vấn đề này. Một số ý kiến cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình là một bộ phận chuyên ngành của Luật dân sự. 

Quan điểm thứ hai, coi Luật hôn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập. 

Quan điểm thứ ba, cho rằng Luật hôn nhân và gia đình là một ngành luật hỗn hợp hoặc một ngành luật cùng loại với Luật dân sự.

Khoa học pháp lý ở nước ta chưa đề cập nhiều đến vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn có sự không thống nhất khi phân loại các ngành luật nói chung và Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng. Đa số các nhà chuyên môn cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập. Quan điểm này được chứng minh dựa trên nền tảng cơ sở kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa: chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất quyết định tính chất các quan hệ xã hội, kể cả quan hệ hôn nhân và gia đình.

Tuy nhiên theo chúng tôi, vấn đề về sự phân định các ngành luật trong hệ thống pháp luật chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào hai tiêu chí là đối tượng và phương pháp điều chỉnh, vấn đề này chỉ mang tính học thuật và không còn được quan tâm nhiều trong những thập kí gần đây. Luật Hôn nhân và gia đình, ngay tên gọi của nó, có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, tức là những lĩnh vực mang tính xã hội, gắn liền với những quyền cơ bản của con người về bình đẳng và tự do. Cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền này không chỉ có dân sự, hành chính mà toàn bộ hệ thống pháp luật.

Cho nên, nếu chỉ nhìn nhận luật hôn nhân và gia đình dưới góc độ có đối tượng điều chỉnh là những quan hệ nhân thân và tài sản giữa các thành viên trong gia đình thì nó là bộ phận chuyên ngành của luật dân sự, tương tự như luật lao động, luật thương mại. Trong hệ thống pháp luật, chỉ có một số ngành luật cơ bản là có đối tượng và phương pháp điều chỉnh rõ ràng như: Luật hiến pháp, Luật dân sự, Luật hành chính, Luật hình sự; và đi cùng với những ngành luật về nội dung đó là những ngành luật về hình thức, thủ tục tố tụng tương ứng: tố tụng bảo hiến, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng hình sự.

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, thực tiễn xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, làm thế nào để pháp luật hôn nhân và gia đình đi vào cuộc sống nếu như các quy phạm của nó chỉ mang tính chất hướng dẫn, khuyến khích thực hiện, mà không dựa vào hệ thống các chế tài, nhất là những chế tài dân sự, hình sự. Trong thực tế, một người hoàn toàn có lỗi trong việc gây mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn vợ chồng, lại có thể được quan tâm bảo vệ lợi ích “bình đẳng” với bên kia, thậm chí được quan tâm hơn nếu đó là phụ nữ.

Thực tế đó dẫn tới hậu quả nhiều khi các quy phạm pháp luật trở nên “gò bó” hoặc quá “mờ nhạt” không còn là chuẩn mực đúng đắn cho các hành vi xử sự của mọi người. Quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ của những người có mối liên hệ tình cảm thân thích đặc biệt. Vì vậy, đối với những quan hệ này, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau trước hết do tình cảm chi phối. Phương pháp khuyến khích, hướng dẫn thực hiện có ý nghĩa quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình. Có thể nói, pháp luật chỉ là yêu cầu tối thiểu trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Khi xây dựng Dự thảo Bộ luật Dân sự, đã có rất nhiều ý kiến đề nghị đưa các vấn đề hôn nhân và gia đình vào trong Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, hiện nay cùng đồng thời với việc tồn tại một đạo luật riêng về hôn nhân và gia đình, trong Bộ luật Dân sự Việt Nam đã có một số quy định về quyền nhân thân và tài sản trong hôn nhân và gia đình (Điều 39, 43, 212, 213 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Theo chúng tôi, dù có những nét đặc thù, các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình và các quan hệ dân sự là những loại quan hệ cùng loại. Những vấn đề về sở hữu, giám hộ trong gia đình đều có nguồn gốc chung từ Luật dân sự. Trong các Bộ luật Dân sự Việt Nam đã có một số quy định về vấn đề kết hôn, ly hôn, tài sản chung của vợ chồng, của các thành viên khác trong gia đình và các vấn đề khác.

Xét về hình thức, đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có nhiều điểm giống với đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự. Tuy nhiên, các quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình vẫn có nhiều nét đặc thù. Những đặc thù này có ảnh hưởng lớn đến thi hành và áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư ly hôn của Công ty Luật TNHH Everest

3- Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình

[a] Đối tượng điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình

Về nội dung, đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có những đặc trưng sau đây:

(i) Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định trong các quan hệ hôn nhân và gia đình.

(ii) Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là một đặc điểm trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Với tư cách là cha mẹ, vợ chồng, con trong mối quan hệ giữa họ với nhau thì điều gắn bó họ trước hết là tình cảm. Đó là tình thương yêu của vợ, chồng, tình máu mủ ruột thịt giữa cha mẹ và các con;

(iii) Quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người khác được.

(iv) Quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình bền vững, lâu dài, không mang tính chất đền bù ngang giá như các quyền khác trong luật dân sự. Tính chất này được quy định bởi tính chất bền vững, lâu dài của hôn nhân và gia đình. Mặt khác, nó còn thể hiện trong việc quy định việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ - các con, giữa các thành viên trong gia đình, không phải thực hiện một lần cho xong nghĩa vụ mà thực hiện hàng tháng, hàng năm, nhiều khi là suốt đời. 

[b] Phương pháp điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình

Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh với các đặc điểm của nó như đã nêu trên, Luật Hôn nhân và gia đình có phương pháp điều chỉnh đặc biệt, thích hợp với nó.

Có thể dễ dàng nhận thấy về nguyên tắc, phương pháp điều chỉnh như bình đắng, thoả thuận của Luật dân sự là cơ sở cho việc áp dụng, vấn đề điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình còn có những đặc điểm sau:

(i) Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền đồng thời là nghĩa vụ của các chủ thể. Ví dụ: Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình...”. Theo quy định đó, nghĩa vụ của vợ đồng thời là quyền của chồng và ngược lại.

(ii) Các chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình.

(iii) Các chủ thể không được phép bằng sự thoả thuận để làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định.

(iv) Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình được đảm bảo bởi tính cưỡng chế của Nhà nước trên tinh thần phát huy tính tự giác thông qua giáo dục, khuyến khích và hướng dẫn thực hiện. Nghiên cứu những đặc điểm của đối tượng và phương pháp điều chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Quán triệt đầy đủ các đặc điểm đó là cơ sở đảm bảo thực hiện và áp dụng đúng đắn Luật Hôn nhân và gia đình.

(Nguồn tham khảo: Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam - Đại học Luật Hà Nội)

Xem thêm: Điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng hôn nhân

4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống pháp luật Việt Nam được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống pháp luật Việt Nam có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

Phạm Nhật Thăng
Phạm Nhật Thăng

Phạm Nhật Thăng là chuyên gia Quản trị và An ninh (Management and Security)

0 bình luận, đánh giá về Luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống pháp luật Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.17222 sec| 996.898 kb