Những hành vi liên quan đến tội phạm
Nội dung bài viết
Những hành vi tuy liên quan đến tội phạm nhưng không phải là hành vi cùng thực hiện (hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức hay thực hành) đều không phải là hành vi đồng phạm mà chỉ có thể cấu thành tội phạm khác trong những trường hợp được luật quy định. Những trường hợp đó là không tố giác tội phạm và che giấu tội phạm. Hành vi không tố giác tội phạm và hành vi che giấu tội phạm tội phạm được gọi chung là hành vi liên quan đến tội phạm. Cả hai hành vi này đều không ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm không được tố giác hoặc che giấu. Do vậy, người có hành vi che giấu hoặc không tố giác tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người thực hiện tội phạm với vai trò người đồng phạm.
Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên, luật hình sự Việt Nam chưa có quy định riêng về tội che giấu tội phạm và tội không tố giác tội phạm mà chỉ có quy định về các trường hợp cụ thể của hai tội phạm này. Ví dụ:
- Tội che giấu phần tử phản cách mạng (Điều 17 Pháp lệnh trừng trị các tội phạm phản cách mạng ngày 30/10/1967).
- Tội bao che cho kẻ xâm phạm tài sản Xã hội chủ nghĩa (hoặc tài sản của công dân) (Điều 19 Pháp lệnh trừng trị các tội phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Điều 15 Pháp lệnh trừng chị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970) v.v..
Trong Bộ luật hình sự đầu tiên cũng như trong Bộ luật hình sự hiện hành, tiếp theo điều luật quy định về đồng phạm có hai điều luật quy định chung về hành vi che giấu tội phạm và về hành vi không tố giác tội phạm. Việc có những quy định như vậy là cần thiết để làm rõ thêm dấu hiệu của đồng phạm và phân biệt hành vi đồng phạm với những hành vi liên quan đến tội phạm.
1- Tội che giấu tội phạm
Tội che giấu tội phạm là hành vi “...không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội...” (Điều 18 Bộ luật hình sự năm 2015)
Đặc điểm của hành vi che giấu tội phạm là không có sự hứa hẹn trước; hành vi này được thực hiện khi tội phạm đã kết thúc. Hành vi che giấu tội phạm được biểu hiện dưới hình thức hành động với lỗi cố ý trực tiếp. Do tính nguy hiểm của các tội phạm được che giấu khác nhau nên hành vi che giấu cũng có tính nguy hiểm khác nhau. Do vậy, không phải hành vi che giấu tội phạm nào cũng cấu thành tội che giấu tội phạm. Hành vi che giấu tội phạm chỉ cấu thành tội che giấu tội phạm khi che giấu những tội nhất định đã được luật quy định (Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015).
Ngoài ra, khoản 2 Điều 18 Bộ luật hình sự năm 2015 còn giới hạn phạm vi chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm khi xác định người không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội khác thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng.
Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Eveerest
2- Tội không tố giác tội phạm
Tội không tố giác tội phạm là hành vi “...biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác...” (Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015).
Hành vi không tố giác tội phạm được thực hiện bằng hình thức không hành động, lỗi của người có hành vi không tố giác tội phạm à cố ý trực tiếp. Do tính nguy hiểm của các tội phạm không bị tố giác khác nhau nên hành vi không tố giác cũng có tính nguy hiểm khác nhau. Do vậy, không phải hành vi không tố giác tội phạm nào cũng cấu thành tội không tố giác tội phạm. Hành vi không tố giác tội phạm chỉ cấu thành tội không tố giác tội phạm khi không tố giác những tội nhất định đã được luật quy định (Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015).
Ngoài ra, khoản 2 và khoản 3 Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015 còn giới hạn phạm vi chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm khi xác định người không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này (trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội khác thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng) là:
- Ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội và
- Người bào chữa cho người phạm tội (về tội phạm do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa).
Người không tố giác tội phạm nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest
3- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Những hành vi liên quan đến tội phạm được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Những hành vi liên quan đến tội phạm có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm