Quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong một số trường hợp khác

26/11/2024
Phạm Gia Minh
Phạm Gia Minh
Đối với các trường hợp phạm tội thông thường, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân thủ các quy định về căn cứ quyết định hình phạt. Trong một số trường hợp đặc biệt, việc quyết định hình phạt còn phải dựa vào một số quy định khác. Vậy việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được thực hiện như thế nào? Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm như thế nào?

1- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Trường hợp có nhiều bản án được đề cập tại Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 bao gồm:

- Thứ nhất, đang phải chấp hành án lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này;

- Thứ hai, đang chấp hành án lại bị xét xử về tội đã phạm sau khi có bản án này.

Trong trường hợp thứ nhất, tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung (trên cơ sở hình phạt của hai bản án) theo quy định của Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 (về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội). Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung (khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015).

Trong trường hợp thứ hai, tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó quyết định hình phạt chung (trên cơ sở hình phạt của bản án sau và phần còn lại chưa chấp hành của bản án trước) theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 (khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015).

Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest

2- Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, khi quyết định hình phạt, tòa án không những phải dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt chung mà còn phải dựa vào quy định bổ sung cho trường hợp này. Đây là những quy định bổ sung cho căn cứ thứ nhất và thứ hai của quyết định hình phạt.

* Quy định bổ sung cho căn cứ thứ nhất (các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015)

Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều luật của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng đồng thời phải theo quy định của Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể, điều luật này quy định:

- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định cho chuẩn bị phạm tội trong các điều luật cụ thể (nếu có) (khoản 2 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định (khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015).

Việc quy định khung hình phạt nhẹ và riêng cho trường hợp chuẩn bị phạm tội trong điều luật cụ thể và quy định áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm đối với trường hợp phạm tội chưa đạt mà điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình là những điểm mới về sự phân hóa trách nhiệm hình sự giữa hành vi phạm tội hoàn thành và hành vi phạm tội chưa hoàn thành trong Bộ luật hình sự năm 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999.

* Quy định bổ sung cho căn cứ thứ hai (tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi)

Theo khoản 1 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, khi quyết định hình phạt cho hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vào mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

Quy định này thực chất là quy định cụ thể về căn cứ thứ hai của quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Nó bao gồm cả nội dung chung và cả nội dung bổ sung. Giữa hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và trường hợp tội phạm hoàn thành của tội phạm nhất định cũng như giữa các trường hợp chuẩn bị phạm tội, giữa các trường hợp phạm tội chưa đạt với nhau có sự khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội do có sự khác nhau về mức độ thực hiện tội phạm cũng như do có sự khác nhau về các tình tiết khiến tội phạm không thực hiện được đến cùng. Do đó, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến tội phạm không thực hiện được đến cùng được coi là hai căn cứ bổ sung bên cạnh căn cứ chung là tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

3- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm vừa tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt vừa phải tuân theo quy định bổ sung cho trường hợp phạm tội này (Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015).

Khi quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, tòa án phải tuân theo quy định chung về căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015. Nhưng khi áp dụng những quy định này, tòa án cần chú ý những điểm sau:

[a] Các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015

Khung hình phạt được áp dụng là khung hình phạt được qui định cho tội phạm mà những người đồng phạm đã cùng nhau thực hiện. Các quy định khác của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với tội phạm cùng được thực hiện đó cũng được áp dụng chung cho những người đồng phạm.

[b] Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi

Trong trường hợp đồng phạm, căn cứ này phải được hiểu là sự thống nhất giữa tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được cùng thực hiện với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của từng người đồng phạm. Tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được cùng thực hiện được xác định trên cơ sở các tình tiết thuộc mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm đó còn tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của từng người đồng phạm được xác định trên cơ sở hành vi đã thực hiện của họ (hành vi đóng góp vào việc cùng thực hiện tội phạm và hành vi vượt quá).

[c] Nhân thân người phạm tội

Đặc điểm nhân thân của mỗi người đồng phạm được xem xét cho chính người có đặc điểm đó khi quyết định hình phạt, không thể lấy đặc điểm nhân thân của người đồng phạm cụ thể để áp đặt cho tất cả những người đồng phạm.

[d] Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự

Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự liên quan đến tội phạm được cùng thực hiện thì được xem xét cho tất cả người đồng phạm khi quyết định hình phạt. Những người đồng phạm cùng phải chịu trách nhiệm về những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này nếu họ đều biết. Mặt khác, họ cùng được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của vụ án cũng như cùng được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu họ cùng có chung tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như cùng tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả của tội phạm...

Khi quyết định hình phạt cho những người đồng phạm, ngoài việc áp dụng các quy định chung nêu trên, tòa án còn phải tuân theo quy định bổ sung được quy định tại Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015. Đây thực chất là quy định bổ sung cho căn cứ quyết định hình phạt thứ hai và thứ tư. Cụ thể:

- Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm vì tính chất của đồng phạm có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được cùng thực hiện còn tính chất và mức độ tham gia của mỗi người đồng phạm là yếu tố ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của mỗi người đồng phạm.

Tính chất tham gia được quyết định bởi vai trò của người đồng phạm, tác dụng của họ đến hoạt động chung của vụ đồng phạm. Thông thường, người tổ chức và người xúi giục có vai trò nguy hiểm hơn cả hoặc có trường hợp người thực hành cũng bị coi là có vai trò nguy hiểm nếu đã có những hoạt động đắc lực.

Mức độ tham gia chỉ sự đóng góp thực tế của những người đồng phạm vào việc gây ra tội phạm cũng như hậu quả của tội phạm.

- Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào thì chi áp dụng đối với người đó.

Đó là những tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội như tái phạm nguy hiểm, là người chưa đủ 18 tuổi phạm tội... hoặc là những tình tiết khác liên quan đến cá nhân từng người đồng phạm như phạm tội với động cơ đê hèn hay phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra...

Các quy định bổ sung trên đây là những biểu hiện cụ thể của các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. Những nguyên tắc chung này đã được trình bày tại Chương VIII của Bộ tài liệu này.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết Quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong một số trường hợp khác được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết Quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong một số trường hợp khác có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong một số trường hợp khác

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.16746 sec| 985.281 kb