Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Luật Tố tụng dân sự Việt Nam

01/03/2023
Tạ Thị Thu Hoà
Tạ Thị Thu Hoà
Quá trình hình thành và phát triển của Luật Tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm bốn giai đoạn, đó là: Giai đoạn trước năm 1945; Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989; Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004; Giai đoạn từ năm 2005 đến nay.

1- Giai đoạn trước năm 1945

Trước thời Pháp thuộc, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém phát triển nên pháp luật cũng chưa phát triển. Trong các văn bản pháp luật được ban hành chưa có sự phân biệt rõ các lĩnh vực về hành chính, dân sự, hình sự và tố tụng. Qua các văn bản pháp luật còn lưu giữ đến ngày nay cho thấy các quy định về tố tụng dân sự của nhà nước phong kiến chịu ảnh hưởng rất lớn của quan điểm nho giáo, ghi nhận cả những hủ tục, tập quán lạc hậu như hạn chế quyền đi kiện của con cháu đổi với ông, bà, cha, mẹ; vợ đối với chồng (từ Điều 504 đển Điều 511 Quốc triều hình luật); không cho mượn người đi kiện thay, nếu ai tự tiện mượn người đi kiện thay thì người mượn và người đi kiện thay phải chịu hình phạt như nhau, bị xử đánh roi, xích sắt khoá lại bắt làm phu phục dịch một tháng.                   .

Dưới thời kỳ Pháp thuộc, tổ chức tư pháp ở nước ta rất phức tạp. Sau bản Hoà ước Giáp Thân ngày 06/6/1884 được ký kết, nước Việt Nam về phương diện pháp lý đã trở thành thuộc địa của Pháp. Bên cạnh các toà án của Việt Nam còn có các toà án của Pháp được thiết lập ở Nam Kỳ và các thành phố khác như Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Nam Định. Toà án của Pháp có thẩm quyền xét xử tất cả các việc có liên quan đến người Pháp, hoặc người nước ngoài được ưu đãi như người Pháp. Toà án của Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết những việc xảy ra giữa người Việt Nam với nhau. Tuy vậy, trong thời kỳ này pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam bước đầu đã có sự phát triển. Những năm đầu thế kỷ XX, chính quyền phong kiến Việt Nam đã ban hành được hàng loạt các văn bản pháp luật có quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự như Bộ Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng Bắc kỳ năm 1921, Bộ Trung kỳ pháp viện biên chể năm 1935, Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng Trung kỳ năm 1935 V.V.. Nhìn chung, các văn bản pháp luật này đã quy định tương đối đầy đù, cụ thể được các vấn đề về tố tụng dân sự, có tính đến điều kiện lịch sử Việt Nam lúc bẩy giờ. Tuy vậy, chúng vẫn còn mang tư tưởng phong kiến lạc hậu và nhiều dấu ấn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 1806 của Pháp.

2- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra trang sử mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Từ ngày đầu được thành lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới. Trong đó có nhiều văn bản có chứa đựng các quy phạm tố tụng dân sự như sắc lệnh số 34/SL ngày 13/4/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp; Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 quy định tổ chức các đoàn thể luật sư; Sắc lệnh sổ 47/SL ngày 10/10/1945 cho giữ tạm các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc, nểu những quy định trong luật lệ cũ không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà; sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các toà án; sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng quyền bào chữa cho các đương sự; sắc lệnh sổ 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng V.V.. Tuy những vấn đề về tố tụng dân sự còn được các văn bản đó quy định tản mạn nhưng đây là những quy định mang tính nguyên tắc đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật tố tụng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn bị đặt dưới sự thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền bù nhìn Sài Gòn cho tới năm 1975. Thời gian đầu chính quyền Sài Gòn vẫn áp dụng những văn bản pháp luật tố tụng được ban hành dưới thời Pháp thuộc như Nghị định ngày 16/3/1910, Dụ số 4 ngày 02/4/1953 về Luật nhà phố nhưng có sử dụng các quy định của Bộ dân sự tố tụng Pháp 1806 để giải thích những thiếu sót. Từ năm 1960 trở đi, chính quyền Sài Gòn đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới. Ngày 8/01/1962, ban hành Luật số 1/62 về quy chế luật sư và tổ chức luật sư đoàn; ngày 5/6/1970, ban hành Sắc lệnh số 72/SL/CCDD/PTNNN quy định về thủ tục tố tụng của những vụ kiện điền địa; ngày 20/12/1972, ban hành Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng. Nhìn chung các quy định pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền Sài Gòn khá cụ thể, đã có những tiến bộ so với pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền phong kiến Việt Nam trước đó. Tuy vậy, chúng cũng chỉ tập trung bảo vệ lợi ích của chính quyền tay sai, phản động.

Ở miền Bắc, từ những năm đầu hoà bình lập lại Nhà nước ta đã ban hành hằng loạt văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới như Thông tư của Bộ tài chính và Bộ tư pháp số 03/VHC ngày 02/4/1955 sửa đổi tạm thời lệ phí về việc hộ; Nghị định của Bộ lao động và Bộ tư pháp về hoà giải xích mích giữa chủ và người làm công; Thông tư của Bộ tư pháp số 1828/VHC ngày 18/10/1955 về quyền chống án và thời hạn chống án; Thông tư của Bộ tư pháp số 69/TC ngày 31/12/1958 sửa đổi thẩm quyền của toà án nhân dân và thủ tục ly hôn V.V.. Sau khi Hiến pháp năm 1959, LTCTAND năm 1960 và LTCVKSND năm 1960 được ban hành, Toà án nhân dân tổi cao (TANDTC) đã ban hành nhiều thông tư hướng dẫn về công tác xét xử dân sự như Thông tư số 614/DS1 ngày 24/4/1963 hướng dẫn một số thủ tục tố tụng cho toà án địa phương, Thông tư số 594/NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế, Thông tư sổ 01/UB ngày 03/3/1969 hướng dẫn việc viết bản án sơ thẩm, phúc thẩm hình sự, dân sự; Thông tư sổ 39/NCPL ngày 21/01/1972 hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự, Thông tư số 06/TATC ngày 25/02/1974 hướng dẫn về công tác điều tra trong tố tụng dân sự, Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 hướng dẫn về công tác hoà giải trong tố tụng dân sự, Thông tư số 96/NCPL ngày 8/02/1977 ban hành Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự V.V.. Đến năm 1980, sau khi Hiến pháp được ban hành, nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật quy định về tố tụng dân sự cũng được ban hành như LTCTAND năm 1981; LTCVKSND năm 1981; Thông tư liên ngành của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và Bộ tư pháp số 01/TTLN ngày 01/02/1982 hướng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm hình sự, giám đốc thẩm dân sự ở toà án nhân dân tỉnh, thành phổ trực thuộc trung ương và tương đương, Thông tư liên ngành của TANDTC, VKSNDTC và Bộ Tư pháp sổ 02/TTLN ngày 01/02/1982 hướng dẫn về thủ tục tái thẩm hình sự, tái thẩm dân sự ở Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tương đương; Thông tư của TANDTC số 82/TATC ngày 07/01/1982 tạm thời quy định về thẩm quyền của toà án nhân dân, Thông tư của TANDTC số 83/TATC ngày 02/8/1982 hướng dẫn thủ tục giám đốc thẩm dân sự ở Toà án nhân dân tối cao; Thông tư liên ngành  của TANDTC, VKSNDTC, Bộ tư pháp, Bộ lao động và Tổng cục dạy nghề số 02/TTLN ngày 02/10/1985 hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân V.V.. Nhìn chung, các văn bản pháp luật được Nhà nước ta ban hành trong thời gian từ 1954 đen 1989 đã quy định được tương đối đầy đủ, hợp lý các vấn đề về tố tụng dân sự. Tuy vậy, các vấn đề về tố tụng dân sự vẫn còn được quy định tản mạn, chủ yếu được quy định trong các thông tư do Toà án nhân dân tối cao ban hành nên hiệu lực chưa cao.

3- Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004

Năm 1989, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thi hành án dân sự đã tạo bước phát triển mới của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Đây là các văn bản pháp luật tố tụng dân sự đầu tiên được Nhà nước ta ban hành quy định các vấn đề về tố tụng dân sự có hiệu lực cao. Tiếp theo đó, nhiều văn bản pháp luật khác cũng được ban hành như LTCTAND năm 1992, LTCVKSND năm 1992, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 (PLTTGQCTCLĐ) V.V.. Để thể chế hoá đường lối cải cách tư pháp của Đảng, sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Nhà nước ta đã ban hành LTCTAND năm 2002, LTCVKSND năm 2002, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Như vậy, trong giai đoạn này nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực cao quy định về các Vẩn đề về tố tụng dân sự đã được ban hành. Tuy vậy, các quy định này vẫn còn khá tản mạn như các giai đoạn trước. Đặc biệt, với sự ra đời của PLTTGQCVAKT năm 1994, PLTTGQCTCLĐ năm 1996 đã dẫn đến các quy định về tố tụng dân sự bị xé lẻ, thiếu tập trung và có nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn.

4- Giai đoạn từ năm 2005 đến nay

Thực hiện đường lối đổi mới của Đàng, kinh tế - xã hội Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI đã không ngừng phát triển. Tuy vậy, sự phát triển kinh tế-xã hội cũng đặt ra những yêu cầu mới về giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Để góp phần thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế- xã hội của Đảng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải các quyết tranh chấp, ngày 15/6/2004, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua BLTTDS đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 5 - BLTTDS năm 2004. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2005.

BLTTDS năm 2004 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm 418 điều được cơ cấu thành chín phần, ba mươi sáu chương. Nội dung của nó đã quy định được khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự như các nguyên tắc cơ bản; thẩm quyền dân sự của toà án; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự; biện pháp khẩn cấp tạm thời; cấp, tống đạt và thông báo các văn bản tố tụng; án phí, lệ phí và chi phí tố tụng; thời hạn tố tụng, thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu; thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự; thủ tục thi hành bản án, quyết định của toà án; xử lý các hành vi cản trở tố tụng; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự; tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự V.V..

Việc ban hành BLTTDS năm 2004 đã đánh dấu bước phát triển của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, khắc phục được tình trạng tản mạn, mâu thuẫn, khiếm khuyết của các quy định tố tụng dân sự trước đây đồng thời cũng thể chế hoá được quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp được ghi nhận trong các văn kiện cùa Đảng như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết của Bộ chính trị số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX cùa Đảng. Từ đó, tạo được những điều kiện thuận lợi cần thiết cho toà án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự; bảo đảm cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước toà án. Theo các quy định của BLTTDS năm 2004, quy trình tố lụng dân sự tại các toà án có sự thay đối căn bản theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch. Trong đó, đương sự được có vai trò quyết định và chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích họp pháp của họ trước toà án. Sau việc ban hành BLTTDS năm 2004 Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này như: Nghị quyết của Quốc hội số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 về việc thi hanh BLTTDS; Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội sổ 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 về việc giao thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 BLTTDS cho toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phổ thuộc tỉnh; Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án ngày 27/02/2009; Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 01/2005/NQ-HDTP ngày 31/3/2005 hướng dẫn một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS; Nghị quyết của HĐTP TANDTC so 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “chứng minh và chứng cứ” V.V..

Sau một thời gian thi hành cho thấy nhiều quy định của BLTTDS năm 2004 vẫn còn bất cập. Để khắc phục tình trạng này, ngày 29/03/2011 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua LSĐBSBLTTDS và có hiệu lực từ ngày 01/01/2012. LSĐBSBLTTDS đã sừa đổi các quy định của BLTTDS năm 2004 không còn phù hợp như về việc tham gia các phiên toà của viện kiểm sát, thẩm quyền của toà án, quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự, thu thập chứng cứ, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu V.V.; đã huỷ bỏ các quy định quyền yêu cầu thi hành án dân sự, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự V.V.. Ngoài ra, Luật này cũng đã bổ sung nhiều quy định mới như quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân sự, thẩm quyền của toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, trình tự hoà giải vụ án dân sự, thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTPTANDTC, thủ tục xét đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu V.V.. Sau khi ban hành LSĐBSBLTTDS, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị quyết của Quốc hội số 60/2011/QH12 ngay 29/3/2011 về việc thi hành LSĐBSBLTTDS; Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo LSĐBSBLTTDS; Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành một sổ quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án/lân sự tại toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo LSĐBSBLTTDS V.V..

Đến năm 2015, để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, ngày 25/11/2015 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua BLTTDS mới - BLTTDS năm 2015 và Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành BLTTDS. Ngày 30/12/2016, ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án. Ngày 30/6/2016, HDTPTANDTC đã ban hành Nghị „quyểt so 02/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính; ngày 31/8/2016, TANDTC và VKSNDTC đã ban hanh Thông tư liên tịch sổ 02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC quy định việc phối họp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS V.V.. BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này đã quy định bô sung nhiều vấn đề mới như nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 24), hậu quả của việc đương sự không hoàn thành nghĩa vụ chứng minh (Điều 91), phiên họp kiếm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải vụ án dân sự (Điều 208), thủ tục rút gọn giải quyết vụ án dân sự (từ Điều 316 đến Điều 324), thủ tục xét tính hợp pháp của cuộc đình công (từ Điều 403 đến Điều 413) V.V.. Việc Nhà nước ban hành BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã làm cho pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.

 

0 bình luận, đánh giá về Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Luật Tố tụng dân sự Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
1.54256 sec| 992.43 kb