Những vấn đề chung về thương lượng giải quyết tranh chấp

"Trong cuộc đời không có gì đáng phải sợ hãi. Chỉ có đáng để được thấu hiểu".

Marie Curie, 1867-1934, nhà khoa học nữ, giành giải 02 Nobel

Những vấn đề chung về thương lượng giải quyết tranh chấp

Khái niệm tranh chấp thương mại, tranh chấp kinh doanh hay tranh chấp kinh doanh, thương mại được sử dụng trong các văn bản pháp luật thực định khác nhau để chỉ sự bất đồng chính kiến, xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại.

Tranh chấp thương mại là tranh chấp mang yếu tố vật chất và có giá trị lớn hoặc các quyền và lợi ích có thể quy ra giá trị vật chất lớn. 

Khi phát sinh tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp, hoặc tuân theo thoả thuận về cơ quan tài phán mà hai bên đà lựa chọn trước đó trong Hợp đồng.

Liên hệ

I- KHÁI NIỆM TRANH CHẤP, TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI

Dưới góc độ khoa học pháp lý, tranh chấp được hiểu là những bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên trong một quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, khái niệm tranh chấp thương mại, tranh chấp kinh doanh hay tranh chấp kinh doanh, thương mại được sử dụng trong các văn bản pháp luật thực định khác nhau để chỉ sự bất đồng chính kiến, xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại.

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá IX) thông qua ngày 16/3/1994 và Nghị định số 116-CP ngày 05/9/1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ tranh chấp kỉnh tế, trên cơ sở các quy định về hợp đồng kinh tế theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế của Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 25/9/1989.

Năm 1997, Luật thương mại được ban hành, và lần đầu tiên khải niệm tranh chấp thương mại đã được đề cập tại Điều 238, theo đó “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 không đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại, tuy nhiên, Pháp lệnh này lại đưa ra khái niệm “hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng, từ đó đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuấn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế.

Theo Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tồ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyến hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biến, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Do đó, các tranh chấp thương mại là những tranh chấp phát sinh từ các lĩnh vực trên.

Năm 2004. Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 đã ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Theo đó, lần đầu tiên thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại" được sử dụng tại Điều 29 và được giữ nguyên trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2011 với tên gọi “Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiếp tục sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” tại Điều 30 và có sửa đổi, bổ sung ngắn gọn và phù họp hơn.

Luật thương mại năm 2005, Luật trọng tài thương mại năm 2010, Luật doanh nghiệp năm 2014... là các luật ban hành sau Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, do đó đã tiếp cận được khái niệm “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” mặc dù vẫn giữ nguyên cách gọi “hoạt động thương mại” hoặc hoạt động “kinh doanh”. Vì vậy, từ năm 2004 đến nay “tranh chấp về kỉnh doanh, thương mại” được sử dụng như một thuật ngữ chính thống, mang nội hàm rộng lớn và đầy đủ từ các khái niệm vê nội dung như “hoạt động thương mại” hay hoạt động “kinh doanh”

Luật thương mại năm 2005 sử dụng thuật ngữ “tranh chấp trong thương mại”, “tranh chấp thương mại” tại Điều 317, Điều 319 (Mục giải quyết tranh chấp trong thương mại) để chỉ những tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 đã giải thích hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi (khoản 16 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014). So với nội hàm khái niệm hoạt động thương mại thì khái niệm kinh doanh hẹp hơn, bao gồm các công đoạn của quá trình đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng dịch vụ. Tranh chấp kinh doanh được hiểu là bất đồng, mâu thuẫn về các lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong hoạt động kinh doanh.

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ tranh chấp thương mại để chỉ những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh hay hoạt động thương mại. Tranh chấp thương mại được hiểu là những bất đồng hay xung đột (mâu thuẫn) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Những mâu thuẫn này phát sinh có thể do trước đó các bên đã thoả thuận với nhau về những vấn đề cần được các bên tôn trọng, thực hiện, nhưng một bên hoặc các bên đã phá vỡ cam kết đó, dẫn đến bên còn lại cho răng quyền hoặc lợi ích chính đáng và hợp pháp của mình bị vi phạm. Như vậy, “một tranh chấp kinh doanh, thương mại cơ bản xảy ra khi quan hệ giữa các doanh nghiệp bị phá vỡ”. Do đó, tranh chấp thương mại có thể được phân biệt bởi một số đặc điểm cơ bản sau: 

(i) Tranh chấp thương mại trước hết là những bất đồng hay xung đột (mâu thuẫn) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Thông thường thì căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Tranh chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên, phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. 

(ii) Mâu thuẫn phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân

Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân, tố chức có đăng ký kinh doanh) với nhau. Bởi vì thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại. Trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác, không phải là thương nhân cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên không có mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật thương mại. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy, những bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này được quan niệm là tranh chấp thương mại. 

(iii) Thông thường, tranh chấp thương mại là tranh chấp mang yếu tố vật chất và có giá trị lớn hoặc các quyền và lợi ích có thể quy ra giá trị vật chất lớn.

(iv) Khi phát sinh tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp, hoặc tuân theo thoả thuận về cơ quan tài phán mà hai bên đà lựa chọn trước đó trong Hợp đồng.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư giải quyết tranh chấp nhà đất (luật sư đất đai) của Công ty Luật TNHH Everest

II- CÁC LOẠI TRANH CHẤP VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như sau: thứ nhất, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau (Khoản 1); thứ hai, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (Khoản 2); thứ ba, tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty (Khoản 3); thứ tư, tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty (Khoản 4); thứ năm, các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật (Khoản 5). 

Luật trọng tài thương mại năm 2010 liệt kê các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài, bao gồm: (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng ghi nhận tại Điều 5 về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, theo đó, tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. 

Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về hoà giải thương mại quy định tại Điều 2 về phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hoà giải thương mại, theo đó, hoà giải viên thương mại có thẩm quyền tiến hành hoà giải các tranh chấp sau đây: (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại và (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hoà giải thương mại. Nghị định số 22/2017/NĐ-CP cũng ghi nhận điều kiện giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại là trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp, các bên phải có thỏa thuận hòa giải thương mại. 

Ngoài ra. với sự hội nhập ngày câng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã ký kết và gia nhập hàng loạt Hiệp định khuyên khích và bảo hộ đầu tư (BIT), ví dụ BIT với Pháp, BIT với Hà Lan, BTA với Mỹ... Việt Nam cũng đã ký kết và sẽ ký kết hàng loạt các Hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA, FTA Việt Nam - Nhật Ban. FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam - Chile... do đó, ngoài việc gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì còn làm phát sinh tranh chấp giữa các nhà đầu tư với các cơ quan nhà nước Việt Nam.

Các tranh chấp thương mại có thể phát sinh liên quan đến vấn đề này như tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư: Loại hình tranh chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài, thực hiện các Điều ước quốc tế khuyên khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương. Tất cả những tranh chấp nêu trên đều là đối tượng đàm phán, thương lượng của luật sư.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý về Sáp nhập và Mua lại doanh nghiệp (M&A) của Công ty Luật TNHH Everest

III- PHƯƠNG THỨC THƯƠNG LƯỢNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

1- Khái lược về phương thức thương lượng giải quyết tranh chấp

Theo quy định tại Điều 317 Luật thương mại năm 2005 thì thương lượng giữa các bên là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp thương mại, bên cạnh các hình thức khác như hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải và giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. 

Thương lượng là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau tiếp xúc, tìm hiểu, dàn xếp, nhượng bộ để tháo gỡ những bất đồng phát sinh nhằm loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bên thứ ba. Trong các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thì phương thức thương lượng là phương thức phổ biến nhất và hiệu quả nhất. Bởi lẽ, ngay sau khi phát sinh tranh chấp, các bên tranh chấp trước hết tự tìm cách giải quyết tranh chấp của mình. Điều này xuất phát từ chính lợi ích cùa các bên và cũng xuất phát từ nguyên tắc quyền tự do định đoạt, tự nguyên cam kết thỏa thuận của các bên. Các phương thức giải quyết tranh chấp còn lại thông thường chỉ được các bên tranh chấp sử dụng khi phương thức thương lượng không đạt được kết quả. 

Thuật ngữ “thương lượng" được sử dụng như một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại theo Luật thương mại năm 2005 có thể không hoàn toàn giống như thuật ngữ “negotiation” (trong dispute negotiation). Thuật ngữ “thương lượng” về nội hàm có ý nghĩa hẹp hơn thuật ngữ tiếng Anh “negotiation” trong một số trường hợp, có thể chỉ được xem như một giai đoạn của “negotiation”. Trong mục này, khái niệm “thương lượng" được diễn giải theo quan niệm phổ biến được sử dụng trong pháp luật hiện hành của Việt Nam. Với cách diễn giải như trên, thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. 

Các yếu tố chi phối lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp cho khách hàng: Khi có tranh chấp phát sinh, khách hàng thường là bên bị vi phạm về quyền lợi. Luật sư tư vấn lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp cho khách hàng có thể căn cứ vào một số yếu tố sau:

Thứ nhất, xuất phát từ thiện chí của các bên và quan hệ hợp tác của các bên tranh chấp. Sự thiện chí, hợp tác của các bên là tiền đề để lựa chọn phương thức thương lượng hoặc hòa giải.

Thứ hai, dựa trên quan hệ của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có quan hệ với nhau như thế nào, thiện chí hợp tác hay ở mức độ gay gắt. Việc các bên tranh chấp ở mức độ gay gắt thì khó có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở lợi ích mà phải lựa chọn các cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp.

Thứ ba, dựa trên cơ sở thỏa thuận trong hợp đồng hoặc thỏa thuận cùa các bên về phương thức giải quyết tranh chấp nằm trong văn bản riêng như thỏa thuận hòa giải thương mại, thỏa thuận trọng tài. 

Thứ tư, dựa trên đánh giá ưu điểm và hạn chế của từng phương thức, mỗi phương thức giải quyết tranh chấp có ưu điểm và hạn chế riêng. Điều quan trọng là phải phù hợp với khách hàng trong từng quan hệ cụ thể đề có thể tư vấn lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu nhất. 

Thứ năm, dựa trên tính chất phức tạp của quan hệ tranh chấp, tính chất phức tạp của vụ tranh chấp có thể đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba là chuyên gia trong lĩnh vực đó thi sẽ chi phối đến việc lựa chọn phương thức hòa giải thương mại hoặc trọng tài.

Thứ sáu, dựa trên tính chất pháp lý của vụ tranh chấp như thời hiệu khởi kiện đã hết, hợp đồng có thể bị vô hiệu.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest

2- Đặc điểm của phương thức thương lượng giải quyết tranh chấp

[a] Phương thức thương lượng giải quyết tranh chấp có những đặc điểm sau: 

- Các bên trong tranh chấp đã quen biết nhau, đã trải qua một quá trình hợp tác kinh doanh, thương mại, đã có quan hệ pháp lý ràng buộc. Trước khi tranh chấp xảy ra có thể các bên đã có một quá trình đàm phán để đạt được thoả thuận. Tranh chấp là những sự kiện có thể xảy ra mà các bên không mong muốn, do đó việc thương lượng để nối lại quá trình hợp tác là có lợi cho cả hai bên.

- Trường hợp tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, việc thỏa thuận của các bên phụ thuộc vào các quy định trong hợp đồng và pháp luật có liên quan. Thỏa thuận của các bên chủ yếu liên quan đến quan hệ hợp đồng các bên đã xác lập và phát sinh tranh chấp.

Thỏa thuận mà các bên đạt được phải phù hợp với quy định của pháp luật, không được vi phạm điều cấm của pháp luật giải quyết về nội dung của tranh chấp đó.

- Các bên tranh chấp sẽ tự thỏa thuận để tìm kiếm giải pháp trên tinh thần tự nguyện, thiện chí, hợp tác mà không có sự tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào. 

- Trong trường hợp đạt được thoả thuận, các bên thường tự nguyện thi hành thoả thuận đó để giải quyết tranh chấp. Trong những trường hợp thương lượng không thành công hoặc thương lượng thành công nhưng hai bên không tự nguyện thi hành, các bên có thể tiếp tục lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp khác phù hợp để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ.

[b] Ưu điểm của phương thức thương lượng:

Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến, thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng. Phương thức thương lượng thể hiện quyền tự do thỏa thuận và tự do định đoạt của các bên.

Phương thức giải quyết tranh chấp này được giới thương nhân ưa chuộng vì đơn giản, không bị ràng buộc bởi thủ tục pháp lý phức tạp. Phương thức này tiết kiệm về thời gian và chi phí giải quyết tranh chấp cho các bên. Phương thức thương lượng cũng không làm tổn hại đến quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên cũng như giữ được bí mật và uy tín kinh doanh.

Khi tham gia phương thức thương lượng, các bên tranh chấp không lo lắng phải tiết lộ sớm các lập luận pháp lý và có khả năng kiểm soát các lập luận, chứng cứ của mình liên quan đến tranh chấp. Bởi vì không có cá nhân, tổ chức nào buộc các bên phải cung cấp chứng cứ 1 hoặc chứng minh cho lập luận của mình mà chỉ có hai bên tự dàn xếp, thỏa thuận tìm ra giải pháp giải quyết tranh chấp.

Điều quan trọng nhất mà các bên tham gia phương thức thương lượng đạt được là thỏa thuận được giải pháp đáp ứng được lợi ích của các bên. Trong phương thức thương lượng, các bên tranh chấp sẽ tự “cân đối". “cân bằng" về lợi ích đề châp nhận đên đâu yêu câu mà đối phương đưa ra. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng còn được gọi là phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở lợi ích. Đây là ưu điểm của phương thức thương lượng và phương thức hòa giải mà các phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan tài phán là Tòa án hoặc Trọng tài thương mại không có được. Cơ sở của việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Trọng tài thương mại là dựa trên cơ sở pháp luật để hội đồng xét xử hoặc hội đồng trọng tài ra bản án hoặc phán quyết quyết định ai đúng, ai sai và yêu cầu của các bên được giải quyết như thế nào.

Phương thức thương lượng cũng là một trong những phương thức mà luật sư thường tư vấn cho khách hàng khi thời hiệu khởi kiện của tranh chấp đã hết. Đây có thể được coi là “cứu cánh” cho khách hàng khi khách hàng là bên bị vi phạm quyền lợi và thuyết phục đối tác của khách hàng tham gia vào quá trình thương lượng. Thông qua thương lượng, bên vi phạm nghĩa vụ thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ sẽ là cơ sở để bắt đầu tính lại thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 157 BLDS năm 2015.

[c] Hạn chế của phương thức thương lượng: 

Phương thức thương lượng trước hết đòi hỏi các bên phải thiện chí, trung thực, hợp tác. Thỏa thuận đạt được trong phương thức thương lượng không có tính cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên. Chính vì vậy, một bên không thiện chí có thể lợi dụng phương thức thương lượng để kéo dài, trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ. Điều này làm cho ưu điểm của phương thức thương lượng là tiết kiệm thời gian và chi phí lại không đạt được nếu một bên không tự nguyện thực hiện giải pháp đạt được trong thương lượng.

Xem thêm: Pháp lý tái cấu trúc doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest

Luật sư Nguyễn Thị Yến - Phó giám đốc của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (nguồn tham khảo: Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật và tham gia giải quyết tranh chấp ngoài tòa án của luật sư - Học viện Tư pháp và một số nguồn khác).

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.7 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Những vấn đề chung về thương lượng giải quyết tranh chấp

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.36072 sec| 1159.344 kb