Khái niệm, đặc điểm, cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội
1- Khái niệm trách nhiệm hình sự của người phạm tội
Trách nhiệm hình sự là một trong những vấn đề lí luận phức tạp. Hiện nay giữa các nhà luật học còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ dấu hiệu của tội phạm được quy định trong bộ luật hình sự thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Đây là nguyên tắc có tính quy kết. Thuật ngữ "trách nhiệm" ở đây không dùng để chỉ nghĩa vụ mà công dân phải có với Nhà nước và xã hội mà nó được dùng để chỉ hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước và xã hội vì họ đã thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cầm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nhà nước bảo vệ những quan hệ xã hội này bằng việc quy định những chế tài (hình phạt, biện pháp tư pháp) trong bộ luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân của họ đồng thời buộc họ phải chấp hành những chế tài ấy.
Hậu quả pháp lí đã nêu chính là trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự cũng chính là dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm "nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và mang án tích".
Vậy trách nhiệm hình sự của người phạm tội được hiểu là "Trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình".
Xem thêm: Về Công ty Luật TNHH Everest
2- Đặc điểm của trách nhiệm hình sự của người phạm tội
Từ khái niệm trách nhiệm hình sự, có thể rút ra một số đặc điểm của trách nhiệm hình sự như sau:
- Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cầm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện.
- Trách nhiệm hình sự chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiền hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện.
- Trách nhiệm hình sự được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt - biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
- Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải đối với người, hay tổ chức mà quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại.
- Trách nhiệm hình sự phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của toa án.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư riêng của Công ty Luật TNHH Everest
3- Cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội
Theo khoản 1 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015 thì "chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự".
Để kết luận hành vi đã được thực hiện của người nào đó có phải là tội phạm không và tội đó là tội gì, hình phạt áp dụng đối với họ ra sao, cần phải xác định hành vi đó đã thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể chưa? Nếu thoả mãn tức là người ấy đã thực hiện tội phạm cụ thể được quy định trong bộ luật hình sự và người thực hiện hành vi này phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm pháp lý, là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự.
Việc xác định một cách thống nhất cấu thành tội phạm là cơ sở của trách nhiệm hình sự là nội dung quan trọng để thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc tuyên bố người nào đó là phạm tội và buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể dựa trên cơ sở pháp lý là cấu thành tội phạm mà không thể dựa vào cơ sở nào khác. Nếu xác định hành vi của một người không có hoặc có nhưng không đầy đủ những dấu hiệu của bất kì cấu thành tội phạm cụ thể nào được quy định trong bộ luật hình sự thì hành vi đó không thể bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi này không thể bị buộc phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tội phạm là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự. Chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự là Nhà nước và người phạm tội với những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Nhà nước có quyền áp dụng chế tài hình sự đối với người phạm tội và họ luôn có nguy cơ có thể phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt.
Quan hệ pháp luật hình sự chỉ được thực hiện khi các cơ quan tiến hành tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) khẳng định bị cáo phạm một hoặc nhiều tội được quy định trong bộ luật hình sự trong các văn bản của mình. Nhưng chỉ có bản án hay quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mới xác định một cách chính thực cơ sở của trách nhiệm hình sự và cụ thể hóa trách nhiệm hình sự bằng loại hình phạt cũng như mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội.
Khi tội phạm xảy ra nhưng chưa bị phát hiện hoặc đã bị phát hiện nhưng chưa tìm ra được người phạm tội, quan hệ pháp luật hình sự vẫn phát sinh và tồn tại. Tuy nhiên, quan hệ này sẽ không được thực hiện chừng nào cơ quan điều tra chưa phát hiện được tội phạm và người phạm tội.
Trong các trường hợp người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt thì quan hệ pháp luật hình sự cũng đã phát sinh nhưng khi tòa án áp dụng các biện pháp tác động xã hội để thay thế các biện pháp hình sự thì quan hệ pháp luật hình sự chấm dứt.
Trách nhiệm hình sự chấm dứt khi:
- Người phạm tội đã chấp hành xong hình phạt (kể cả hình phạt bổ sung nếu có);
- Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt;
- Có đặc xá hoặc đại xá;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Đã hết thời hiệu thi hành bản án.
Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest
4- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
[a] Bài viết Khái niệm, đặc điểm, cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
[b] Bài viết Khái niệm, đặc điểm, cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
[c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê Luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm