Khái quát chung về hợp đồng hợp tác kinh doanh (Hợp đồng BCC)

14/03/2023
Hoạt động đầu tư ngày càng phát triển kéo các quan hệ đầu tư cũng ngày càng phong phú, đa dạng. Khác với những quan hệ đầu tư khác, ở quan hệ đầu tư theo hợp đồng, mà đặc biệt là hợp đồng hợp tác kinh doanh, các chủ thể ràng buộc với nhau bằng các cam kết trong hợp đồng, ít chịu sự điều chỉnh bởi các quy định pháp luật, do đó, hợp đồng là cơ sở chủ yếu cho phép xác định quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các nhà đầu tư. Với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng như nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh có tính linh hoạt, do không có sự ràng buộc về tổ chức bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu tư với nhau. Với ưu điểm này, quy định về đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu và sự lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác nhau.

1- Khái niệm hợp đồng hợp tác kinh doanh

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để mở rộng thị trường, tìm kiếm lợi nhuận nhưng do những hạn chế về vốn, công nghệ,... các chủ thể thực hiện việc liên kết, hợp tác với nhau để tận dụng nhân lực, vật lực hoặc trí lực nhằm thực hiện có hiệu quả một hoặc một vài công việc nhằm thu được lợi ích nhất định mà không ràng buộc bởi một pháp nhân chung. Do những ưu điểm nổi trội này mà hiện nay đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (hay còn gọi là hợp đồng BCC - Business Cooperation Contract) đang ngày càng được các nhà đầu tư lựa chọn. 

Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, theo đó các bên hơn doanh cùng góp vốn, cùng quản lý kinh doanh, cùng chịu rủi cùng phân chia kết quả thu được nhưng không thành lập bất cứ một pháp nhân mới nào. Trong quá trình thực hiện hợp đồng này, các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp lý của chính mình, nhân danh chính mình để thực hiện hợp đồng. Hình thức hợp đồng này không chỉ phổ biến tại Việt Nam mà cũng được quy định tại pháp luật nhiều nước trên thế giới, gọi tắt là hợp doanh. 

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng được ký kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, theo đó các bên hợp doanh cùng góp vốn, cùng quản lý kinh doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia kết quả thu được nhưng không thành lập pháp nhân mới.

Dưới góc độ pháp lý, hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định lần đầu tiên tại Điều lệ về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 của Hội đồng Chính phủ. Tuy nhiên, trong Điều lệ này không quy định về hợp đồng hợp tác kinh doanh hay hoạt động đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh mà quy định về hình thức đầu tư “hợp tác sản xuất chia sản phẩm” - đây được coi là tiền đề của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh hiện nay.

Khái niệm hợp đồng hợp tác kinh doanh lần đầu tiên xuất hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, có phạm vi điều chỉnh là quan hệ hợp tác kinh doanh giữa nhà đầu tư Việt Nam và nhà đầu tư nước  ngoài. Khi mới được quy định trong pháp luật đầu tư Việt Nam, hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ có thể được ký kết và thực hiện giữa hai bên chủ thể, bao gồm một bên nước ngoài và một bên Việt Nam. Phù hợp hơn với thực tiễn kinh doanh, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1990 đã quy định hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng hai bên hoặc nhiều bên (phía Việt Nam có thể gồm một hoặc nhiều bên, phía nước ngoài cũng có thể gồm một hoặc nhiều bên). Trên cơ sở này, hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được định nghĩa là: văn bản được ký giữa hai bên hoặc nhiều bên về hợp tác kinh doanh. Cùng với các quan hệ hợp doanh được thực hiện với các nhà đầu tư nước ngoài, quan hệ hợp doanh giữa các nhà đầu tư trong nước cũng hình thành ở thời điểm đó, song còn thiếu các quy định cụ thể, ngoài các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế nói chung.

Luật Đầu tư năm 2005 ra đời, quy định thống nhất về hoạt động đầu tư. Theo đó, khoản 16 Điều 3 Luật này quy định "Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân”. Tuy nhiên, khái niệm nêu trên có hạn cho là đánh đồng hợp đồng BCC và hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC; trong khi đó, về bản chất hợp đồng BCC là một loại hơn đồng trong kinh doanh; khác với đầu tư theo hợp đồng BCC với tư cách là một hình thức đầu tư trực tiếp của nhà đầu tư. Khắc phục hạn chế này, hiện nay, khái niệm hợp đồng BCC được ghi nhận tại khoản 9 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017, 2018, 2019 “Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế.

Như vậy có thể thấy, qua nhiều lần sửa đổi nhưng các văn bản quy định về hợp đồng BCC đều thể hiện bản chất của hợp đồng này là sự thỏa thuận cùng góp vốn, cùng kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận mà không thành lập pháp nhân chung giữa các nhà đầu tư.

Nếu như trước đây, hợp đồng BCC chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật đầu tư thì từ ngày 24/11/2015, Quốc hội khóa XIII thông qua Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017) để thay thế cho Bộ luật Dân sự năm 2005 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế nhất định. Lần đầu tiên, trong Bộ luật Dân sự đã ghi nhận hợp đồng hợp tác với tư cách là một hợp đồng dân sự thông dụng (được quy định từ Điều 504 đến Điều 512). Tại Điều 504 Bộ luật Dân sự năm 2015 đưa ra quy phạm định nghĩa về hợp đồng hợp tác là: “Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm”. Từ sự đối chiếu trong quy định của Luật Đầu tư năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017, 2018, 2019 với quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 cho thấy, hợp đồng BCC thể hiện đầy đủ các yếu tố mang tính bản chất của hợp đồng hợp tác được quy định trong Bộ luật Dân sự: từ cơ sở hình thành hợp đồng cho đến sự tự do ý chí, tự nguyện, mục đích của hợp đồng, cách thức thực hiện hợp đồng để đạt được mục đích mà các bên đề ra. Cụ thể là:

- Chủ thể tham gia hợp đồng là các cá nhân, pháp nhân cùng đóng góp công sức, tài sản.

- Mục đích giao kết hợp đồng là cùng thực hiện công việc nhất định, cùng chia sẻ lợi ích, đồng thời, cùng chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện công việc. Quá trình thực hiện công việc, phương thức phân chia lợi nhuận cũng như gánh chịu rủi ro cụ thể sẽ tuân theo những thỏa thuận của các bên trong hợp đồng.

2- Đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh

Ngoài những đặc điểm chung của hợp đồng hợp tác, qua phân tích quy định pháp luật, có thể nhận diện hợp đồng BCC thông qua một số đặc điểm:

- Về tính chất: Đây là quan hệ đầu tư được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, các nhà đầu tư có chung vốn kinh doanh nhưng không thành lập tổ chức kinh tế mới.

Do quan hệ giữa các nhà đầu tư được quy định trong hợp đồng do chính các bên thỏa thuận, soạn thảo, do đó, hợp đồng BCC ít chịu sự điều chỉnh bởi các quy định pháp luật. Ngoài việc không thành lập pháp nhân chung giữa các nhà đầu tư được xem là đặc điểm quan trọng để phân biệt hợp đồng BCC với hợp đồng thành lập doanh nghiệp. Trong hợp đồng BCC, các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư chỉ ràng buộc với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ theo theo thỏa thuận trong hợp đồng mà không có sự ràng buộc về mặt tổ chức. Trong quá trình đầu tư theo hợp đồng BCC, các nhà đầu tư sử dụng tư cách pháp lý của mình để thực hiện việc ký kết hợp đồng cũng như tiến hành các công việc phục vụ cho dự án đầu tư chung, mặc dù các bên có thỏa thuận thành lập Ban điều phối để thực hiện hợp đồng nhưng ban này không phải đại diện pháp lý cho các bên.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Yếu tố này mang lại cho các nhà đầu tư sự linh hoạt, tính độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn đề liên quan đến dự án đầu tư. Các nhà đầu tư cũng tránh được những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình quản lý điều hành dự án đầu tư do không trở thành đồng sở hữu chủ của một tổ chức kinh tế mới nào đó.

- Về chủ thể của hợp đồng: Chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh là các nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Về số lượng chủ thể tham gia, có thể bao gồm hai hoặc nhiều nhà đầu tư cùng có quan hệ hợp tác kinh doanh với nhau (song phương hoặc đa phương). Đây là đặc điểm phân biệt hợp đồng hợp tác kinh doanh với các hợp đồng khác trong hoạt động thương mại như hợp đồng mua bán hàng hóa,hợp đồng cung ứng dịch vụ. Những hợp đồng này thường chỉ có sự tham gia của hai bên (ví dụ: một thương nhân bên mua và một thương nhân bên bán).

- Về nội dung quan hệ đầu tư: Cũng như quan hệ đầu tư khác, đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng đòi hỏi các nhà đầu tư phải bỏ vốn để cùng kinh doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia kết quả kinh doanh.

Xét về lợi thế, đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giúp sớm thu được lợi nhuận vì các nhà đầu tư không mất thời gian đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới. Do không phải thành lập doanh nghiệp mới để thực hiện dự án nên thủ tục đầu tư cũng đơn giản, không tốn nhiều thời gian, chi phí, do đó, đây là hình thức đầu tư dễ tiến hành, thích hợp với các dự án cần triển khai nhanh, thời hạn đầu tư ngắn' như lĩnh vực bất động sản, khai khoáng, thăm dò, khai thác dầu khí, v.v..

3- Phân biệt hợp đồng hợp tác kinh doanh và hợp đồng liên doanh

Trong nghiên cứu pháp luật đầu tư, cần phân biệt hợp đồng hợp tác kinh doanh và hợp đồng liên doanh. Về bản chất, hai loại hợp đồng này có khá nhiều điểm tương đồng, đó là:

Thứ nhất, đều là cơ sở pháp lý hình thành nên quan hệ đầu tư;

Thứ hai, chủ thể của hợp đồng đều có thể bao gồm hai bên hoặc nhiều bên (song phương hoặc đa phương) và đều bao gồm các đối tượng là “nhà đầu tư” theo quy định của pháp luật Việt Nam;

Thứ ba, nội dung của hợp đồng đều chứa đựng sự thỏa thuận làm hình thành quyền, nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư (do đặc điểm giống nhau này nên có một số quốc gia coi hợp đồng liên doanh cũng là một hình thức đầu tư theo hợp đồng, cho dù có xuất hiện việc thành lập pháp nhân mới trong quá trình thực hiện dự án).

Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, pháp luật Việt Nam không coi hợp đồng liên doanh là hình thức đầu tư độc lập. Hợp đồng liên doanh không chỉ có mục đích là sự thỏa thuận làm hình thành các quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư khi họ chung vốn cùng hoạt động đầu tư, mà còn có mục đích tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập một doanh nghiệp chung (công ty). Do đó, hợp đồng liên doanh có một số điểm khác biệt với hợp đồng hợp tác kinh doanh như sau:

(1) Hợp đồng liên doanh không phải là hình thức đầu tư độc lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đây chỉ là văn bản bắt buộc phải có trong hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư theo hình thức thành lập doanh nghiệp liên doanh (được quy định bổ sung đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài).

(2) Hợp đồng liên doanh là cơ sở quan trọng của việc thành lập doanh nghiệp liên doanh (thuộc hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế), do đó, ngoài những nội dung tương tự hợp đồng BCC, hợp đồng liên doanh còn có sự thỏa thuận về loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề và phạm vi kinh doanh, vốn điều lệ, phần góp vốn của mỗi bên, phương thức, tiến độ góp vốn điều lệ, điều kiện chấm dứt hoạt động, giải thể doanh nghiệp... Như vậy, hợp đồng liên doanh thuộc loại hợp đồng mang tính tổ chức hay hợp đồng thành lập công ty mà pháp luật nhiều nước đã quy định. Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp liên doanh phải được xây dựng dựa trên những nội dung thỏa thuận của hợp đồng. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư, cùng với điều lệ hoạt động của doanh nghiệp liên doanh, hợp đồng liên doanh là văn bản có hiệu lực pháp luật trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư.

4- Khuyến nghị công ty luật TNHH Everest

(i) Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

(ii) Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

(iii) Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

0 bình luận, đánh giá về Khái quát chung về hợp đồng hợp tác kinh doanh (Hợp đồng BCC)

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.19284 sec| 991.836 kb