Khái quát về dịch vụ pháp lý
I- KHÁI NIỆM VỀ DỊCH VỤ PHÁP LÝ
Hiện nay, khái niệm vể dịch vụ pháp lý chua có sự thống nhất từ phía các nhà nghiên cứu lập pháp ở nhiểu nước trên thế giới. Nhưng có thể hiểu một cách đơn giản là hoạt động cung cấp những dịch vụ pháp luật nhằm cung cấp các giải pháp để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan và nảy sinh từ các hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp...
Có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ pháp lý, nhưng theo một kết quà nghiên cứu, có hai xu huớng định nghĩa về dịch vụ pháp lý:(i) Theo nhà cung cấp dịch vụ (ví dụ như Đức, Ôxtrâylia,Trung Quốc...) coi luật sư là nhà cung cấp dịch vụ pháp lý độc quyền: (ii) Theo sự liệt kê các loại hình của dịch vụ pháp ly.
Cũng như khi đưa ra khái niệm vể dịch vụ, các tổ chức quốc tế cũng sử dụng phương pháp liệt kê theo xu hướng liệt kê các loại hình của dịch vụ pháp lý để nhận biết dịch vụ pháp lý theo các loại hình của ngành dịch vụ này.
Theo WTO, dịch vụ pháp lý duợc coi là một trong những lǐnh vực mà các quốc gia phải mở cửa thị trường cho nhà đầu tư của các quốc gia thành viên WTO khi gia nhập tổ chúc này. Theo đó. dịch vụ pháp lý bao gồm dịch vụ tư vấn, dịch vụ tranh tụng cũng như toàn bộ các hoạt động liên quan đến quản lý tư pháp (như hoạt động của thẩm phán, thư ký tòa án, công tố viên, luật sư công, v.v.). Tuy nhiên, loại hoạt động liên quan dến quản lý tư pháp bị gạt ra ngoài phạm vi của Hiệp dịnh chung về thuơng mại dịch vụ, bởi vì ở hầu hết các nước, các hoạt động này đuợc coi là “loại dịch vụ được cung cấp trong khi thực hiện quyền lực nhà nước” theo Điểu I Hiệp định chung về thuơng mại dịch vụ.
Cụ thể, theo “Bảng phân loại các ngành dịch vu” của WTO thì “ (a) dịch vụ pháp lý” được liệt kê với tư cách là tiểu ngành dịch vụ của “(A) dịch vụ chuyên môn” nằm trong ngành dịch vụ thứ nhất: “1. Dịch vụ kinh doanh”, tương ứng với mã số CPC 861 của Liên hợp quốc, “ dịch vụ pháp lý” được chia thành nhiều loại:
861 Dịch vụ pháp lý;
8611 Dịch vu đại diện và tư vấn pháp lý trong các lĩnh vực luật pháp khác nhau;
86111 Dịch vụ đại diện và tư vấn pháp lý đối với luật hình sự;
86119 Dich vụ tư vấn và dại diện trong quá trình xét xử tòa án liên quan tới các lĩnh vực luật pháp khác;
8612 86120 Dịch vụ tư vấn và đại diện trong quá trình tố tụng của các cơ quan, tổ chúc mang tính tòa án;
8613 86130 Dịch vụ cung cấp và chứng nhận hồ sơ pháp lý;
8619 86190 Các dịch vụ thông tin và tư vấn pháp lý khác;
Viêc sửa đổi mã CPC được Uỷ ban thống kê của Liên hợp quốc thông qua tháng 02/1997 về cơ bản không thay đổi nhiểu vê dịch vụ pháp lý. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: tiểu ngành dịch vu pháp lý được bổ sung “dịch vụ trọng tài và hòa giải" mà trước đây thuộc về dịch vụ tư vấn quản lý.
866 8660 Các dịch vụ liên quan tới tư vấn quản lý;
86602 Dịch vu trọng tài và hòa giải;
Như vậy, Uỷ ban thống kê của Liên hợp quốc phân biệt các dịch vụ pháp lý theo tiêu chí lĩnh vực luật hình sự hay các lĩnh vực pháp luật khác hoǎc theo tiêu chí thủ tục tai tòa án hay thủ tục tại các cơ quan tài phán ngoài tòa án. Cẩn nhận thấy rằng các tiêu chí phân loại này không phản ánh được thực tiễn dịch vụ pháp lý.
II- MỨC ĐỘ MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ
Trên thực tế, các nước thành viên WTO khi cam kết mở cửa thị trường dịch vụ đã phân biệt các dịch vụ pháp lý dựa trên tiêu chí theo đó dịch vụ pháp lý được cung cấp là pháp luật nào? Pháp luật nước mình (home country law), pháp luật của nước tiếp nhận dịch vụ (host country law) hoặc pháp luật nước thứ ba hay pháp luật quốc tế. Tiêu chí này phản ánh mức độ mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý. Đó là các mức độ sau:
(i) Pháp luật của nuớc tiếp nhận dịch vụ (tứ vấn/tranh tụng);
(ii) Pháp luật nước mình và/hoặc pháp luật nước thứ ba (tư vấn/ tranh tụng);
(iii) Pháp luật quốc tế (tư vấn/tranh tụng);
(iv) Dịch vụ chuẩn bị hồ sơ và chứng nhận pháp luật;
(v) Các dịch vu khác về tư vấn và thông tin pháp luật.
Thành viên WTO có thể cho phép luật sư nước ngoài thực hành pháp luật trong nước, luật quốc tế và luật nước mình hoặc luật nước thứ ba. Trong tất cả các trường hợp nêu trên, thành viên WTO có thể chỉ cam kết mở cửa dịch vụ tư vấn (như trường hợp Việt Nam) hoặc mở rộng cho dịch vụ tranh tụng, theo đó luật sư nước ngoài có thể đại diện cho khách hàng trước tòa án hoặc tổ chức trọng tài ở nước tiếp nhận dịch vụ. Khi các luật sư thực hành luật quốc tế, luật nước mình hay luật nước thứ ba, họ đuợc gọi là nhà tư vấn luật nước ngoài (Foreign Legal Consultants).
Ngành dịch vụ pháp lý với tư cách là ngành thương mại dã thể hiện sự phát triển vững vàng và liên tục trong những thập kỷ qua. Đó chính là kết quả của sự phát triển thương mại quốc tếv à sự xuất hiện các lĩnh vực mới của thực tiễn, nhất là lĩnh vực pháp luật kinh doanh.
Hiện nay, tại Việt Nam, quan niệm về dịch vụ pháp lý cũng chưa có được sự thống nhất từ phía các nhà làm luật và hoạt động thực tiễn. Quan niệm vể dịch vụ pháp lý ở Việt Nam chưa tương thích với khái niệm cùng loại của nhiểu nước phát triển trên thế giới cũng như của WTO.
Theo Từ điển Luật học: “dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cẩu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội”.
Hoặc quan niệm coi “dịch vụ pháp lý là tổng thể các dịch vụtư vấn pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý... những người đủ tiêu chuẩn để cung cấp dịch vụ pháp lý là luật sư hoặc các chủt hể khác phụ thuộc vào từng nhóm dịch vụ cụ thế”. Theo đó, phạm vi dịch vụ pháp lý được xác định gồm: dịch vụ tư vấn pháp luật; dịch vụ đại diện pháp lý (trong tố tụng tư pháp, trong thủ tục hành chính, tố tụng trọng tài và đại diện theo ủy quyền vê những vấn để liên quan đến pháp luật;các hoạt động dịch vụ pháp lý khác (soạn thào hợp đồng, các giấy tờ pháp lý...)
Có thê nhận thấy là Việt Nam, dịch vụ pháp lý là một ngành thương mại dịch vụ, theo đó bên cung ứng là những tổ chức hành nghề cung ứng dịch vụ pháp lý hoặc người cung ứng dịch vu pháp lý hành nghề với tư cách cá nhân đuợc thành lập hợp pháp, được cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ pháp lý, thực hiện một hoặc nhiều công việc có liên quan dến pháp luật thuộc līnh vực hành nghề của mình cho bên sủ dụng (gọi chung là khách hàng) để thu phí.
III- KHUYẾN NGHỊ CÔNG TY LUẬT TNHH EVEREST
(i) Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
(ii) Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
(iii) Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm