Khái quát về pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

01/03/2023
Ở Việt Nam, trước năm 1990 có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là thuế lợi tức. Thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh còn các doanh nghiệp quốc doanh thì áp dụng chế độ trích nộp lợi nhuận. Kể từ sau năm 1990, Nhà nước ta thực hiện công cuộc cải cách căn bản hệ thống chính sách thuế và Luật thuế lợi tức mới được ban hành để áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập thu được từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Nhưng nhiều quy định trong Luật thuế lợi tức không còn phù hợp như một số quy định về chi phí hợp lí, hợp lệ hoặc quy định về miễn giảm thuế lợi tức... Để khắc phục những nhược điểm cơ bản của Luật thuế lợi tức, để bảo đảm sự phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn mới, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế cho Luật thuế lợi tức. Việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho Luật thuế lợi tức nhằm thực hiện các mục tiêu và bảo đảm các yêu cầu.

I- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Trải qua quá trình áp dụng trong thực tiễn, Luật thuế lợi tức đã thu được nhiều kết quả hơn so với chế độ thu cũ. Song bên cạnh đó, do tình hình kinh tế xã hội luôn có những bước phát triển mới, Luật thuế lợi tức đã ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế và gây ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến tiến trình phát triển của nền kinh tế nước ta. Cụ thể:

Về tên gọi “thuế lợi tức” không phản ánh đầy đủ nội dung kinh tế của thuế này;

Phạm vi điều chỉnh của Luật thuế lợi tức còn hạn hẹp, không bao quát hết mọi loại hình kinh doanh, mọi loại thu nhập đã và đang phát sinh trong hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.

Mức động viên thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh vào ngân sách nhà nước còn nhiều bất hợp lí như mức thuế suất áp dụng còn quá cao, quá chênh lệch giữa các ngành nghề, điều đó không chỉ hạn chế doanh nghiệp tích luỹ tái đầu tư mà còn gây khó khăn, phức tạp cho công tác quản lí, thu nộp thuế đồng thời tạo ra kẽ hở cho tham nhũng tiêu cực phát sinh, phát triển. Đặc biệt trong Luật thuế lợi tức, thuế suất áp dụng còn khác biệt quá lớn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gây ra sự bất bình đẳng lớn trong kinh doanh, trong cạnh tranh, không khuyến khích các nhà đầu tư trong nước tăng tích luỹ để tái đầu tư mà còn tạo ra tâm lí cho các doanh nghiệp trong nước luôn tìm cách để tránh thuế. Việc dành quá nhiều sự ưu đãi về thuế cho nhà đầu tư nước ngoài không những không gây hứng thú cho họ mà làm cho họ hoài nghi về môi trường đầu tư ở Việt Nam.

Nhiều quy định trong Luật thuế lợi tức không còn phù hợp như một số quy định về chi phí hợp lí, hợp lệ hoặc quy định về miễn giảm thuế lợi tức...

Để khắc phục những nhược điểm cơ bản của Luật thuế lợi tức, để bảo đảm sự phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn mới, ngày 10/05/1997 Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế cho Luật thuế lợi tức kể từ ngày 01/01/1999. Việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho Luật thuế lợi tức nhằm thực hiện các mục tiêu và bảo đảm các yêu cầu sau:

(i) Phải bao quát và điều tiết tất cả các khoản thu nhập của các cơ sở kinh doanh đã, đang và sẽ phát sinh trong nền kinh tế thị trường.

(ii) Khuyến khích và thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước thông qua chế độ ưu đãi về thuế suất, miễn giảm thuế.

(iii) Từng bước thu hẹp sự phân biệt giữa đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đảm bảo sự bình đẳng trong kinh doanh, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mà Đảng ta đã đề ra.

(iv) Hệ thống hoá tất cả những quy định ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư được quy định trong các luật khác nhau như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Bộ luật lao động, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật thuế lợi tức... nhằm khắc phục tình trạng tản mạn, chồng chéo đồng thời đảm bảo được sự rõ ràng, thống nhất trong việc thực hiện các chế độ ưu đãi thuế.

Ngoài ra, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được ban hành để thay thế Luật thuế lợi tức còn nhằm phù hợp với định hướng cải cách bước hai hệ thống chính sách thuế ở nước ta, tạo điều kiện mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm phát triển kinh tế trong nước.

Sau 4 năm thực hiện Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, kết quả thu được là khả quan, về cơ bản Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã đạt được các mục tiêu và yêu cầu đặt ra, cụ thể là:

(i) Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư và thay đổi cơ cấu kinh tế. Thông qua ưu đãi về thuế suất và miễn giảm thuế cho các dự án đầu tư đã góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo động lực phát triển kinh tế khuyến khích người dân bỏ vốn thành lập doanh nghiệp mới, đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái... đồng thời, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng hướng các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề, vùng kinh tế theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.

(ii) Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã điều tiết được hầu hết các khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp tương đối ổn định và ngày càng tăng về số tuyệt đối cũng như tỉ trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước.

(iii) Việc đưa vào thực hiện Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã thúc đẩy các cơ sở sản xuất, kinh doanh tăng cường hạch toán, củng cố công tác kế toán, hoá đơn, chứng từ, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu sản xuất kinh doanh.

(iv) Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã đơn giản, dễ thực hiện hơn so với Luật thuế lợi tức (do mức thuế suất, thủ tục kê khai đã được quy định đơn giản hơn... tiết kiệm được thời gian chi phí, nhân lực cho cả người thu và người nộp thuế).

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đã bộc lộ một số hạn chế như sau:

(i) Một số khoản chi phí chưa được pháp luật quy định hoặc quy định chưa phù hợp với thực tiễn dẫn đến tình trạng chi phí không được phản ánh đầy đủ, ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn đầu tư và xác định không đúng nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Chẳng hạn, các quy định về khấu hao tài sản cố định, chi phí trả lãi tiền vay, chi phí quảng cáo tiếp thị khuyến mại, chi phí trang phục, chi công tác phí...

(ii) Về thu nhập chịu thuế, một số cơ sở kinh doanh có quyền sử dụng đất và một số cơ sở kinh doanh thuê đất của Nhà nước đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất đã phát sinh khoản thu nhập này, thậm chí là rất lớn nhưng chưa đưa vào thu nhập chịu thuế để điều tiết.

(iii) Còn có quy định khác biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chưa bảo đảm sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế và cạnh tranh trong cơ chế thị trường, không phù hợp luật pháp các nước trong khu vực và thông lệ quốc tế. Chẳng hạn, các quy định về mức thuế suất hoặc quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với doanh nghiệp trong nước có thu nhập cao do lợi thế khách quan đem lại hoặc quy định về thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam khi chuyển lợi nhuận về nước họ...

(iv) Các quy định ưu đãi, miễn giảm thuế giữa Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước... chưa thống nhất với nhau về các điều kiện được hưởng ưu đãi; mức và thời gian ưu đãi, miễn giảm thuế... điều đó đã gây ra khó khăn cho việc áp dụng, không bảo đảm tính công bằng, bình đẳng về quyền lợi được hưởng giữa các loại hình doanh nghiệp.

(v) Các quy định về kế khai nộp thuế, quyết toán thuế, quản lí thuế còn mang nặng tính thủ tục hành chính “xin cho” chưa phát huy tính tự giác, chưa nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cơ sở kinh doanh trong thực hiện nghĩa vụ thuế. Cơ quan thuế còn nặng về thực hiện các công việc sự vụ, kém hiệu quả mà chưa tập trung quan tâm đến công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế, một nhiệm vụ quan trọng của ngành thuế hiện nay...

Để khắc phục một số nhược điểm của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đồng thời để tạo điều kiện cho người nộp thuế và người thu thuế thực hiện đúng luật, giảm bớt nghĩa vụ đóng góp của các cơ sở kinh doanh, tạo điều kiện để doanh nghiệp tích tụ vốn đầu tư phát triển, bao quát điều tiết được hầu hết các khoản thu nhập trong các cơ sở kinh doanh để bảo đảm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tiến đến việc áp dụng thống nhất thuế thu nhập doanh nghiệp không phân biệt doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo sự thống nhất cao của thuế thu nhập doanh nghiệp. Trên cơ sở rà soát tập hợp các quy định về ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đã ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật khác vào trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngày 17/6/2003 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi để thay thế cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đối có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2004.

Ngày 03/6/2008, Quốc hội ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mói, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thay thế Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003. Việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp mới năm 2008 xuất phát từ các lí do sau:

Một là ngày 21/11/2007 Quốc hội cũng đã thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009), trong đó các đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được chuyển sang thực hiện theo Luật thuế thu nhập cá nhân. Và ngày 29/11/2006, Quốc hội cũng đã thông qua Luật quản lí thuế có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007, trong đó các nội dung về đăng kí thuế, kê khai, nộp thuế, thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm của thuế thu nhập doanh nghiệp được thống nhất quy định tại Luật quản lí thuế.

Hai là Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 quy định cả chi phí được trừ và chi phí không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Cách quy định này là phù hợp với thực tiễn khi ban hành vì có thể giúp cho doanh nghiệp đối chiếu để tự kê khai. Tuy nhiên, qua thực hiện ngày càng phát sinh nhiều vướng mắc, gây khó khăn, làm hạn chế quyền chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh. Bởi hiện nay, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo xu hướng đa ngành, đa lĩnh vực, phát sinh nhiều khoản chi mới mà pháp luật chưa bao quát được hết dẫn đến việc hiểu và vận dụng khác nhau giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lí nhà nước (thuế, thanh tra, kiểm toán), tạo cơ hội để sinh ra cơ chế “xin - cho” trong quá trình thực hiện. Để khắc phục hạn chế này, bảo đảm rõ ràng, tạo thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế theo quy định của Luật quản lí thuế một cách có hiệu quả, cần thiết sửa đổi theo hướng quy định điều kiện để xác định khoản chi được trừ, liệt kê cụ thể các khoản không được trừ; những khoản không được liệt kê thì đương nhiên doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập.

Ba là tại thời điểm đầu năm 2003, hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất của doanh nghiệp phát sinh lãi rất lớn do giá đầu ra tăng cao theo quy hoạch trong khi đất được giao tính thu tiền sử dụng đất theo mức giá thấp, vì vậy để điều tiết hợp lí, kịp thời đối với thu nhập này, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định thu thuế bổ sung đối với thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, để khuyến khích phát triển bất động sản, hạn chế quy hoạch “treo”, bỏ đất trống..., Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đã quy định ưu đãi đối với bất động sản. Tuy nhiên, kể từ năm 2005, thực hiện quy định của Luật đất đai, các trường hợp được giao đất để kinh doanh bất động sản như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư nhà để chuyển nhượng đều phải thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất hoặc nộp theo giá đất do uỷ ban nhân dân địa phương quy định và được điều chỉnh hàng năm. Do thay đổi về cơ chế xác định giá đất theo giá thị trường, chính sách thu đối với đất đai đã điều tiết được các khoản lợi nhuận tăng do chênh lệch giá đất và giảm bớt lợi nhuận của doanh nghiệp. 

Vì vậy, không cần thiết phải duy trì việc thu bổ sung đối với lợi nhuận từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh bất động sản đang chuyển sang theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp chuyển quyền sử dụng đất gắn vói tài sản trên đất dễ chuyển thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất sang thu nhập kinh doanh tài sản trên đất để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung và được hưởng ưu đãi. Vì vậy, cần bãi bỏ việc thu thuế bổ sung đối với thu nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất và áp dụng chính sách thuế chung đối với thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất và thu nhập từ kinh doanh bất động sản.

Bốn là các quy định về ưu đãi trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 được tổng hợp từ tất cả các văn bản pháp luật ban hành từ khi nền kinh tể nước ta mới mở cửa, môi trường đầu tư kém hấp dẫn, cơ sở hạ tầng còn khó khăn,... trên nguyên tắc chọn mức ưu đãi cao nhất, thuận lọi nhất để áp dụng chung. Vì vậy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 có 3 thuế suất ưu đãi là 10%, 15% và 20% cùng với nhiều mức thời gian miễn, giảm thuế (tối đa là 4 năm miễn và 9 năm giảm 50%). Để được hưởng các ưu đãi này, Luật quy định nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi, vừa căn cứ vào địa bàn đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư. Sự phức tạp thể hiện ở chỗ: do việc ưu đãi áp dụng đối với quá nhiều trường hợp nên các dự án đầu tư liên quan tới nhiều ngành nghề, nhiều địa bàn khó xác định chính xác mức độ ưu đãi. Hơn nữa, các điều kiện ưu đãi không rõ ràng, khó thực hiện. Thêm vào đó, một số chính sách xã hội được lồng ghép để thực hiện qua các ưu đãi thuế đã làm cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 thêm dàn trải và phức tạp, tác động của ưu đãi thuế đối với việc phân bổ nguồn lực trong đầu tư còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn.

Ngoài ra, trong quá trình thực hiện cho thấy có nhiều dự án đầu tư theo nhiều hạng mục, ngành nghề, địa bàn khác nhau nên việc xác định điều kiện ưu đãi, mức ưu đãi, doanh nghiệp khó xác định đúng mức ưu đãi thuế được hưởng. Qua tổng kết đánh giá, có không ít doanh nghiệp được hưởng ưu đãi theo nhiều trường hợp khác nhau như: ưu đãi do mới thành lập, ưu đãi theo đầu tư mở rộng, ưu đãi do đáp ứng tỉ lệ xuất khẩu, ưu đãi do sử dụng lao động nữ, ưu đãi sử dụng lao động là người tàn tật, ưu đãi do thực hiện các hợp đồng dịch vụ kĩ thuật phục vụ nông nghiệp... dẫn đến doanh nghiệp gặp nhiều lúng túng trong việc tự xác định ưu đãi miễn, giảm. Bên cạnh đó, thực tế quản lí cho thấy các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, tập trung chủ yếu vào các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc những địa bàn thuận lợi. Như vậy, phát sinh vấn đề phân bổ nguồn lực chưa hợp lí, việc thu hút đầu tư vào các địa bàn khó khăn không đạt được mục tiêu đề ra do các địa bàn thuận lợi cũng được ưu đãi theo tiêu chí ngành nghề.

Thực tiễn nước ta trong thời gian vừa qua cũng như kinh nghiệm của các nước cho thấy: mặc dù chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam có mức ưu đãi hấp dẫn hơn so với nhiều nước nhưng nếu như không sửa đổi để thu hút đầu tư có lựa chọn thì hiệu quả thu hút đầu tư trong nước cũng như nước ngoài để khuyến khích phát triển nền kinh tế sẽ rất khó có thể đạt được theo định hướng của Nhà nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc hưởng ưu đãi đầu tư và thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tư nộp, cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi các quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đảm bảo tránh phức tạp và dàn trải theo hướng: Có cơ chế ưu đãi minh bạch, thiết thực, phù hợp với xu thế chung về cải cách thuế của các nước trên thế giới; chuyển từ ưu đãi theo diện hẹp (miễn, giảm thuế) sang cơ chế hạ mức thuế suất phổ thông xuống thấp hơn mức 28% để khuyến khích cả nền kinh tế, đồng thời sắp xếp lại ưu đãi (miễn, giảm thuế) tập trung vào một số lĩnh vực mũi nhọn và địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn.

Theo đó đã giảm bớt các ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi thuế, chỉ dành cho một số ít lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn là: giáo dục đào tạo, y tế, thể thao, công nghệ cao, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của nhà nước; đồng thời không lồng ghép vừa ưu đãi theo ngành nghề, vừa ưu đãi theo địa bàn. Đã là doanh nghiệp mới thành lập thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng một mức thuế suất ưu đãi duy nhất, không kể thành lập ở địa bàn nào. Riêng doanh nghiệp mới thành lập không thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư thì có hai mức độ ưu đãi theo hai loại địa bàn kinh tế-xã hội: đặc biệt khó khăn và địa bàn kinh tế-xã hội khó khăn.

Năm là Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 được ban hành trong điều kiện doanh nghiệp thường có trụ sở điều hành tại địa bàn địa phương nơi kinh doanh; Luật quản lí thuế quy định nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại nơi đóng trụ sở chính đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hạch toán tập trung, điều hành.

Tuy nhiên, trong thực tế, các doanh nghiệp thường có cơ sở kinh doanh tại nhiều địa phương khác và ở những nơi này, chính quyền địa phương phải cung cấp nhiều dịch vụ phục vụ cho sản xuất-kinh doanh như: bệnh viện, trường học, nhà ở công nhân, vệ sinh môi trường, trật tự trị an... nhưng không có nguồn thu vì thuế thu nhập doanh nghiệp đã được nộp tại nơi đóng trụ sở chính. Đe giải quyết tốt vấn đề này phù hợp trong giai đoạn hiện nay, cần thiết phải sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách địa phương.

Xem thêm: Bản chất và đặc điểm của thuế thu nhập.

II- SỰ THAY ĐỔI CỦA LUẬT THUẾ THU NHẬP NĂM 2008

Từ những nội dung nêu trên đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp để hạn chế sự chồng chéo, trùng lặp, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật thuế. Việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 để nhằm thực hiện các mục tiêu và yêu cầu sau:

Một là tiếp tục tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; thực hiện giảm mức thuế suất chung để khuyến khích doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Hai là tạo bước cải cách ưu đãi thuế theo hướng bảo đảm môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút đầu tư có chọn lọc và nâng cao chất lượng đầu tư, tác động tích cực đến phân bổ nguồn lực để phát triển địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và một số lĩnh vực mũi nhọn đặc biệt quan trọng, đồng thời bảo đảm chính sách đơn giản, rõ ràng, minh bạch, góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 3/6/2008 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009 sau 4 năm thực hiện đã cơ bản đạt được mục tiêu đề ra khi ban hành Luật. Bên cạnh những kết quả đạt được, do sự biến động nhanh của nền kinh tế nên một số quy định trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, không theo kịp sự vận động của thực tiễn, cụ thể:

(i) Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành chỉ quy định ưu đãi thuế cho doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư, không có quy định ưu đãi cho doanh nghiệp đang hoạt động có đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới, trong khi thực tế nhiều doanh nghiệp có mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng không thành lập pháp nhân mới nên chưa tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp đang hoạt động bỏ thêm vốn đầu tư, do vậy, chưa phát huy hết hiệu quả phân bổ nguồn lực trong đầu tư để đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế theo vùng và lãnh thổ, nhất là thu hút đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn;

(ii) Một số khoản thu nhập chịu thuế mới phát sinh trong thực tiễn, như: thu nhập từ các hoạt động chuyển nhượng quyền kinh doanh như chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác chế biến khoáng sản; chuyển nhượng quyền góp vốn đầu tư, quyền tham gia dự án đã được Chính phủ có quy định để điều chỉnh phù hợp với thực tiễn phát sinh; một số khoản thu nhập cần được miễn thuế để phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế nay cần bổ sung vào Luật để đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch và cơ sở pháp lí;

(iii) Một số quy định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ chưa thật sự phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong thời gian tới, chưa góp phần vào việc kiểm soát thu nhập, chi phí của doanh nghiệp như: chưa có quy định về khống chế tỉ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu (vốn mỏng) được tính vào chi phí; quy định về định mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu, về các khoản chi của doanh nghiệp tham gia tài trợ cho hoạt động xã hội; về tỉ lệ khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại không còn phù hợp với thực tiễn...

Bên cạnh đó, thực hiện Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 - 2020, cần điều chỉnh giảm mức động viên thuế tạo điều kiện tăng tích luỹ, tích tụ cho doanh nghiệp. Mức thuế suất phổ thông tuy không cao hơn các nước trong khu vực nhưng cần được nghiên cứu từng bước điều chỉnh giảm để đảm bảo sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư, khuyến khích sản xuất kinh doanh, phù hợp với xu thế cải cách thuế của thế giới;

Ngoài ra, việc sửa đổi Luật là cần thiết nhằm đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho người nộp thuế và công tác quản lí thuế, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá quản lí thuế.

III- SỰ THAY ĐỔI CỦA LUẬT THUẾ THU NHẬP NĂM 2013

Việc ban hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013 nhằm thực hiện các mục tiêu, yêu cầu sau:

(i) Tiếp tục tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợir bảo đảm công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; thực hiện giảm mức thuế suất chung để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh; Tiếp tục cải cách ưu đãi thuế nhằm tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển cấc vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước trong giai đoạn tới;

(ii) Nuôi dưỡng nguồn thu, đảm bảo động viên hợp lí và nguồn thu ổn định của Ngân sách nhà nước; việc sửa đổi sẽ tác động giảm thu ngân sách nhà nước trong những năm đầu, nhưng sẽ tăng trưởng nguồn thu ngân sách nhà nước trong trung và dài hạn;

(iii) Tập trung sửa đổi, bổ sung những vấn đề bất cập so với thực tế, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và có tính ổn định, đảm bảo đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lí thuế;

(iv) Góp phần nâng cao khả năng cạnh ưanh so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với nước ta, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế.

Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, thuế thu nhập doanh nghiệp có thể hiểu như sau:

Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, thu vào phần thu nhập của các tổ chức kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lí giữa các tổ chức sản xuất, kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

Luật sư: Nguyễn Thị Bích Phượng - Trưởng phòng Doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (từ Giáo trình Luật Thuế Việt Nam - Đại học Luật Hà Nội và một số nguồn khác).

 

0 bình luận, đánh giá về Khái quát về pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.18699 sec| 1055.602 kb