Kỹ năng của luật sư: trao đổi với người bị buộc tội trong vụ án hình sự

"Nhà nước ổn định duy nhất là nhà nước mà ở đó tất cả con người đều bình đẳng trước pháp luật".

- Aristotle, bác học người Hy Lạp cổ đại

Kỹ năng của luật sư: trao đổi với người bị buộc tội trong vụ án hình sự

Trao đổi với người bị buộc tội là công việc cần thiết của luật sư bào chữa khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Thông qua trao đổi với người bị buộc tội, luật sư bào chữa sẽ biết được các tình tiết của vụ án, đồng thời làm rõ các thông tin liên quan đến việc bào chữa, bảo vệ. Từ quá trình trao đổi đó Luật sư xây dựng được kế hoạch cụ thể và phương hướng giải quyết, bào chữa có lợi nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ.

Liên hệ

I- KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA: TRAO ĐỔI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

Gặp, hỏi người bị buộc tội là quyền đầu tiên và quan trọng nhất của luật sư bào chữa để khởi đầu quá trình bào chữa cho người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra. Điểm bất lợi, khó khăn của luật sư bào chữa khi gặp, trao đổi với người bị buộc tội đang bị tạm giam, tạm giữ là sự giới hạn về thời gian gặp, không gian và nội dung luật sư bào chữa cần trao đổi với thân chủ của mình đều bị hạn chế. Mặc dù điểm a khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định người bào chữa có quyền gặp, hỏi người bị buộc tội có nghĩa người bào chữa có quyền gặp, hỏi người bi buộc tội ở bất cứ thời điểm nào, tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn những rào cản khiến người bào chữa không thể chủ động tự mình vào nơi tạm giam, tạm giữ để gặp người bị buộc tội khi cần.

Theo quy định tại Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT/BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 của Bộ trưởng Bộ Công an - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Chánh án TANDTC - Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT/ BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC) thì khi nhận được văn bản thông báo người bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật.

Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Trên thực tế, một số cơ sở giam giữ lấy lý do vụ án thuộc loại án “nhạy cảm” như án ma túy, án xâm phạm an ninh quốc gia... đang trong quá trình điều tra cần có sự giám sát của cơ quan điều tra đối với các buổi gặp, làm việc của người bào chữa với người đang bị tạm giam, tạm giữ nên không đồng ý làm thủ tục trích xuất người bị tạm giam, tạm giữ cho gặp người bào chữa. Trong trường hợp này, người bào chữa phải thụ động đợi khi nào điều tra viên thông báo vào cơ sở giam giữ xét hỏi người bị tạm giam, tạm giữ thì mới được vào cơ sở giam giữ gặp thần chủ của mình cùng điều tra viên.

1- Thực hiện thủ tục vào cơ sở giam giữ gặp người bị buộc tội

Khi đã chốt được thời gian, địa điểm gặp người bị buộc tội, người bào chữa cần chuẩn bị đầy đủ và mang theo Sổ tay ghi chép, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự cũng như các tài liệu cần thiết khác và Thẻ luật sư, Giấy giới thiệu, Văn bản thông báo người bào chữa đã được cơ quan tiến hành tố tụng cấp để làm thủ tục vào cơ sở giam giữ gặp, trao đổi với thân chủ của mình. Dù đi độc lập hay đi cùng điều tra viên, kiểm sát viên, luật sư bào chữa cũng phải xuất trình Thẻ luật sư cho cán bộ trực ban vào sổ theo dõi ra, vào. Nếu đi độc lập, luật sư bào chữa cần tìm đến Phòng quản lý Hồ sơ người bị tạm giam, tạm giữ xuất trình Thẻ luật sư, Giấy giới thiệu,

Văn bản thông báo người bào chữa để đăng ký gặp người bị tạm giam, tạm giữ. Lãnh đạo có thẩm quyền của cơ sở giam giữ căn cứ các giấy tờ hợp lệ do người bào chữa cung cấp ban hành quyết định trích xuất người bị tạm giam, tạm giữ ra gặp người bào chữa, đồng thời cử cán bộ quản giáo hướng dẫn người bào chữa đến địa điểm gặp,trao đổi với người bị tạm giam, tạm giữ trong khuôn viên cơ sở giam giữ. Khi nhận và trả người bị tạm giam, tạm giữ, luật sư bào chữa đều phải ký, ghi rõ họ và tên luật sư, tên tổ chức hành nghề luật sư vào sổ quản lý thăm,gặp người bị tạm giam tạm giữ theo quy định. Nếu luật sư đi cùng điều tra viên, kiểm sát viên thì không cần thực hiện các bước trên đây, điều tra viên, kiểm sát viên có trách nhiệm phải làm thủ tục đăng ký trích xuất, nhận và trả người bị tạm giam, tạm giữ.

Lần đầu tiên người bào chữa gặp người bị buộc tội trong cơ sở giam giữ là lần gặp có ý nghĩa rất quan trọng để thiết lập mối quan hệ giữa luật sư bào chữa với thân chủ của mình nên luật sư bào chữa cần gây ấn tượng tốt, thể hiện sự chuyên nghiệp từ trang phục, tác phong đến lời nói, cử chỉ, hành động của mình. Quá trình gặp, trao đổi với người bị buộc tội phải tạo được sự tin tưởng, tin cậy của thân chủ, chủ động trong trao đổi, giao tiếp, đồng thời phải nghiêm túc, đúng mực, tôn trọng thân chủ, tránh thái độ ban ơn, thương xót càng làm cho thân chủ thêm tự ti, chán nản.

2- Nội dung và phạm vi trao đổi với người bị buộc tội

Do thời gian được gặp, trao đổi với người bị buộc tội bị tạm giam hạn chế nên người bào chữa phải định lượng trước được nội dung và phạm vi trao đổi với người bị buộc tội phù hợp với từng lần gặp.

Ví dụ: Lần gặp thứ nhất người bào chữa chỉ trao đổi, phân tích, đánh giá với người bị buộc tội nhận định, quan điểm của người bào chữa về cơ sở pháp lý, việc tuân thủ quy định của cơ quan tiến hành tố tụng khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, về tội danh áp dụng, về biện pháp ngăn chặn, thời hạn tạm giam, tạm giữ đang áp dụng đối với thân chủ của mình. Lần gặp thứ hai người bào chữa tập trung trao đổi, phân tích, đánh giá với người bị buộc tội về các chứng cứ buộc tội của cơ quan điều tra, các chứng cứ gỡ tội do người bào chữa thu thập được và do người thân của người bị buộc tội cung cấp.

Ở lần đầu gặp thân chủ của mình, luật sư bào chữa nên chủ động giới thiệu ngắn gọn về luật sư bào chữa, sự tham gia của luật sư bào chữa trong vụ án đang giải quyết bằng việc xuất trình Thẻ luật sư, Giấy mời luật sư của người thân người bị buộc tội, Văn bản thông báo người bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng cấp đưa trực tiếp cho người bị buộc tội xem, đọc để tạo sự yên tâm, tin tưởng với người bị buộc tội.Sau khi giới thiệu về mình, người bào chữa cần dành thời gian khoảng 02 đến 03 phút để trao đổi các thông tin phụ không liên quan đến vụ án như hỏi thăm tình hình sức khỏe, điều kiện ăn ở, sinh hoạt trong trại tạm giam, nơi tạm giữ của người bị buộc tội; thông tin cho người bị buộc tội biết về tình hình sức khỏe, tình cảm của các thành viên thân thích trong gia đình của họ.

Người bào chữa cũng cần giải thích cho người bị buộc tội biết về quyền, nghĩa vụ của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng, phân tích về lợi ích, ý nghĩa của sự tham gia của luật sư vào vụ án với tư cách người bào chữa cho người bị buộc tội, đồng thời động viên người bị buộc tội hợp tác với người tiến hành tố tụng, khai báo, cung cấp thông tin chính xác, trung thực những gì đã biết và diễn ra trong vụ án, vụ việc.

Khác với tính chất có phần căng thẳng, gò bó trong các buổi làm việc, xét hỏi có sự tham gia của điều tra viên, kiểm sát viên, khi người bào chữa gặp người bị buộc tội sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trao đổi thẳng thắn, trực tiếp với người bị buộc tội để xác định những vấn đề nhạy cảm, tế nhị mà người bị buộc tội e ngại không dám nói ra khi có mặt điều tra viên, kiểm sát viên, luật sư bào chữa sẽ trao đổi với bị can các nội dung sau:

- Trao đổi về các tình tiết của vụ việc, những điểm cần làm rõ, đặc biệt là những tình tiết có tính chất buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng TNHS, các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Người bào chữa cần trao đổi cụ thể với người bị buộc tội những vấn đề về nội dung vụ án như người bị buộc tội có thực hiện hành vi phạm tội như quyết định khởi tố bị can hay không; ý thức chủ quan khi thực hiện hành vi phạm tội là gì; lỗi người bị buộc tội đã thực hiện là lỗi cố ý hay vô ý; nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội; động cơ, mục đích phạm tội; nhận thức về hành vi nguy hiểm cho xã hội đã gây ra; các tình tiết giảm nhẹ TNHS; người bị buộc tội có ý kiến gì về việc bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam, tạm giữ; có đủ điều kiện được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh tại ngoại hay không.

- Trao đổi để làm rõ trong quá trình tiến hành tố tụng, điều tra viên, kiểm sát viên có vi phạm gì không. Một trong những nội dung trao đổi rất cần thiết đối với người bị buộc tội là tìm hiểu để xác định việc chấp hành, áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can đến quá trình xét hỏi người bị buộc tội, thu thập chứng cứ, vật chứng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có vi phạm gì ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội hay không, khi bị khởi tố, bị bắt tạm giam có được điều tra viên giải thích về quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng không; quá trình điều tra xét hỏi có bị mớm cung, ép cung, bức cung, nhục hình không? Nếu có bị mớm cung, ép cung, bức cung, nhục hình thì cụ thể như thế nào, hậu quả ra sao, tên của điều tra viên vi phạm, có chứng cứ chứng minh các hành vi vi phạm đó không?

- Trao đổi, hướng dẫn thân chủ về việc tham gia tố tụng. Người bào chữa cần trao đổi, hướng dẫn cho người bị buộc tội những vấn đề cần lưu ý trước khi kết thúc mỗi buổi làm việc, hỏi cung, phúc cung, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm hiện trường và các hoạt động điều tra khác. Cụ thể như:

(i) Hướng dẫn thân chủ liên lạc tới hoạt động hỏi cung: Trước khi kết thúc mỗi buổi làm việc, điều tra viên có trách nhiệm đọc lại cho người bị buộc tội nghe lại toàn bộ nội dung trong Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung làm việc… và yêu cầu người bị buộc tội ký xác nhận vào từng trang trong Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung đó. 

Người bào chữa cần trao đổi, hướng dẫn cho người bị buộc tội nên tự đọc lại toàn bộ nội dung trong Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung, kiểm tra kỹ xem nội dung ghi chép của điều tra viên đã phản ánh đúng nội dung làm việc, xét hỏi hay chưa. Nếu người bị buộc tội đọc thấy phần nào còn thiếu cần bổ sung thì có quyền đề nghị điều tra viên ghi bổ sung ở cuối trang, phần nào sai thì yêu cầu sửa lại cho đúng hoặc đề nghị điều tra viên dùng bút gạch đi. Tại vị trí điều tra viên gạch xóa bỏ nội dung thì điều tra viên phải ghi rõ việc gạch, xóa đó. Ví dụ: “Xóa 02 chữ...”.

Đồng thời, điều tra viên và người bị buộc tội phải ký tên ngay sát vị trí chữ bị gạch, xóa bỏ đó mới hợp pháp. Việc làm này để tránh trường hợp tự điều tra viên hoặc người khác có hành vi tác động, can thiệp (xóa bỏ, sửa chữa) vào nội dung của Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung. Người bào chữa cũng cần trao đổi, hướng dẫn cho người bị buộc tội cách thức ký chốt vào Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung. Ký chốt không phải là ký vào cuối trang Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung mà là ký sát vào chữ cuối cùng của dòng chữ cuối cùng viết trên trang Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung đó. Nếu điều tra viên không dùng bút gạch chéo phần giấy còn lại trên trang Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung chưa ghi nội dung thì người bị buộc tội có quyền đề nghị điều tra viên gạch chéo phần còn lại, tránh trường hợp điều tra viên tự viết thêm nội dung khác gây bất lợi cho người bị buộc tội vào Biên bản làm việc, Biên bản hỏi cung đó.

(ii) Hướng dẫn thân chủ về việc nhận Bản kết luận điều tra: Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày cơ quan điều tra ban hành Bản kết luận điều tra vụ án, điều tra viên sẽ trực tiếp vào cơ sở giam giữ tống đạt Bản kết luận điều tra cho bị can mà không cần báo cho người bào chữa biết, cùng vào cơ sở giam giữ để chứng kiến việc tống đạt. Bản kết luận điều tra vụ án có thể gửi cho người bào chữa bằng con đường bưu điện hoặc báo cho người bào chữa đến trụ sở cơ quan điều tra gặp điều tra viên để nhận trực tiếp bằng 01 biên bản giao nhận.

Do không trực tiếp có mặt lúc bị can là thân chủ của mình nhận Bản kết luận điều tra nên trước khi kết thúc giai đoạn điều tra, người bào chữa cần trao đổi, hướng dẫn cho bị can biết cách thức, nội dung ghi ý kiến khi được điều tra viên tống đạt Bản kết luận điều tra vụ án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Theo biểu mẫu Biên bản giao nhận Bản kết luận điều tra vụ án thì phần nội dung ghi ý kiến của bị can chỉ để trống vài dòng nên người bào chữa tư vấn cho bị can nội dung ghi ý kiến cần ngắn gọn, thể hiện tóm tắt quan điểm của bị can là “Tôi đồng ý với Bản kết luận điều tra” hoặc "Tôi không đồng ý với bản kết luận điều tra” hoặc có thể ghi “Tôi sẽ có ý kiến sau” trong trường hợp Bản kết luận điều tra có nhiều nội dung phức tạp và nhiều trang bị can cần có thêm thời gian để đọc và hiểu hết nội dung. Nếu bị can không có ý kiến gì thì điều tra viên sẽ tự viết nội dung “Bị can không có ý kiến gì” vào phần ghi ý kiến của bị can và bị can sẽ ký, ghi rõ họ tên ở phần người nhận.

Đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, trong giai đoạn điều tra, người bào chữa cần phải trao đổi với người bị buộc tội để làm rõ thêm:

- Mức độ nhận thức về hành vi đã thực hiện của người bị buộc tội ở từng thời điểm trước, trong và sau khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

- Điều kiện sinh sống và giáo dục của gia đình, nhà trường đối với người bị buộc tội trước khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

- Có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục, ép buộc người bị buộc tội thực hiện hành vi phạm tội.

- Khi thực hiện hành vi phạm tội, người bị buộc tội có được hưởng lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần gì hay không.

- Những nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội của người bị buộc tội.

3- Những điểm người bào chữa cần lưu ý khi vào cơ sở giam giữ gặp người bị buộc tội

Người bào chữa được mang vào cơ sở giam giữ các văn bản luật, hồ sơ, tài liệu liên quan, Sổ ghi chép, Giấy giới thiệu, Thẻ luật sư, Văn bản thông báo người bào chữa tham gia tố tụng nhưng phải chấp hành quy định kiểm tra an ninh khi cần thiết. Khi chủ động đề xuất, người bào chữa được mang theo thuốc lá điếu cho người bị buộc tội sử dụng tại chỗ, thể hiện sự quan tâm, thân thiện của người bào chữa đối với thân chủ, tuy nhiên vẫn phải xin phép, được cán bộ quản giáo kiểm tra, đồng ý mới được sử dụng.

Trường hợp người thân trong gia đình của người bị buộc tội có nhờ người bào chữa chuyển ảnh người thân, chuyển thư động viên giữ gìn sức khỏe, vận động khai báo thành khẩn (không liên quan đến vụ án đang điều tra), người bào chữa có thể mang vào cho người bị buộc tội xem tại chỗ nếu được cán bộ quản giáo đồng ý, sau khi xem xong thì đưa lại cho người bào chữa mang về .

Quá trình người bào chữa gặp, trao đổi với người bị buộc tội tại cơ quan giam giữ cần lưu ý không được mang theo vũ khí, chất cháy nổ, chất độc hại, chất gây nghiện, chất kích thích; không được sử dụng điện thoại di động, các thiết bị ghi âm chụp ảnh quay phim. Nếu có mang theo các thiết bị điện tử này, người bào chữa cần xuất trình và gửi cho cán bộ quản lý cơ sở giam giữ đưa vào tủ lưu giữ và nhận chìa khóa tủ riêng, kết thúc buổi làm việc sẽ được nhận lại sử dụng ngoài khuôn viên cơ sở giam giữ.

Người bào chữa cũng không được cưỡng ép, xúi giục người bị buộc tội khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, cản trở quá trình điều tra của cơ quan tiến hành tố tụng. Nghiêm cấm người bào chữa đưa cho người bị buộc tội những đồ vật bị cấm trong và sau khi gặp, nếu vi phạm sẽ bị lập biên bản, bị xử lý theo quy định của cơ sở giam giữ.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hành chính của Công ty Luật TNHH Everest

II- KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA: TRAO ĐỔI TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ

Khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra. Bản kết luận điều tra là văn bản cơ quan điều tra xác định kết quả của công tác điều tra sau khi kết thúc quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, điều tra về một hay nhiều hành vi vi phạm pháp luật của một hay nhiều bị can trong vụ án hình sự. Việc điều tra kết thúc khi cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Trong vòng 02 ngày kể từ ngày ban hành Bản kết luận điều tra, cơ quan điều tra sẽ giao bản kết luận điều tra và toàn bộ hồ sơ vụ án hình sự cho viện kiểm sát cung cấp để viện kiểm sát quyết định việc truy tố bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Do thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự để viện kiểm sát ra một trong các quyết định như truy tố bị can trước Tòa án, trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can không nhiều (20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra vụ án) nên người bào chữa phải cân đối thời gian, bố trí lịch làm việc hợp lý để thực hiện việc trao đổi với bị can trong giai đoạn truy tố.

Người bào chữa cần chủ động liên hệ, bố trí thời gian gặp kiểm sát viên được phân công kiểm sát vụ án đề nghị được nghiên cứu hồ sơ vụ án, sao chụp các tài liệu, bút lục có liên quan đến việc bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án. Tùy theo quy mô, tính chất và loại án hình sự mà thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sẽ khác nhau, nhưng tối thiểu phải từ một đến hai ngày để nắm bắt được những nội dung cơ bản trong vụ án liên quan đến bị can như các căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thời gian, địa điểm xảy ra vụ án,các chứng cứ mà cơ quan điều tra đã sử dụng để buộc tội, vai trò của bị can trong vụ án, các hành vi cụ thể người bị buộc tội đã thực hiện, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, những lời khai nhận tội, những lời khai gỡ tội của bị can...

Trước khi gặp, trao đổi với bị can dù tại cơ sở giam giữ hay tại trụ sở tổ chức hành nghề luật sư, người bào chữa cần lập kế hoạch xác định rõ phạm vi và nội dung trao đổi cụ thể với bị can. Việc trao đổi giữa người bào chữa với bị can phải có tính chất tương tác 02 chiều trên tinh thần hợp tác để tìm ra các tình tiết, căn cứ bào chữa, bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp cho bị can trong giai đoạn truy tố.

Trước hết, người bào chữa cần trao đổi với bị can về kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, nêu quan điểm, nhận định sơ bộ của luật sư bào chữa về tội danh bị can bị đề nghị truy tố trong Bản kết luận điều tra cũng như tình trạng pháp lý hiện tại của bị can. Luật sư cần lắng nghe, ghi chép tóm tắt vào Sổ tay luật sư bào chữa các ý kiến, quan điểm, lời trình bày của bị can về các tỉnh tiết, thông tin, sự kiện liên quan trong vụ án cũng như những nguyện vọng chính đáng của bị can, giải đáp những câu hỏi thắc mắc về pháp luật của bị can.

Luật sư bào chữa cũng cần giải thích cho bị can biết về tiến trình các giai đoạn tố tụng, ý nghĩa của giai đoạn truy tố và những việc cần làm trước khi viện kiểm sát ban hành bản cáo trạng – văn bản tố tụng của viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra Tòa án để xét xử về tội danh và điều luật quy định trong Bộ luật hình sự trên cơ sở kết luận điều tra của cơ quan điều tra cùng cấp. Người bào chữa cần trao đổi với bị can những nhận định của mình về khả năng áp dụng khung khoản, điều luật trong Cáo trạng sẽ đề nghị truy tố theo kinh nghiệm thực tiễn của luật sư  bào chữađể bị can chuẩn bị trước về mặt tâm lý. Nếu xét thấy có đủ căn cứ và bị can có nguyện vọng xin bảo lĩnh tại ngoại thì luật sư bào chữa sẽ giải thích cho bị can biết rõ quy trình, điều kiện, cách thức để luật sư tư vấn cho người bảo lĩnh có đủ điều kiện làm đơn xin bảo lĩnh cho bị can, đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can.

Trường hợp bị can cung cấp thêm cho luật sư bào chữa các chứng cứ mới rất quan trọng có căn cứ để đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung như ngoài bị can đã bị khởi tố và điều tra, còn có người đồng phạm khác có liên quan đến vụ án nhưng cơ quan điều tra còn bỏ lọt chưa khởi tố bị can đó, luật sư bào chữa trao đổi với bị can để kiến nghị với viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Luật sư bào chữa và bị can cũng cần trao đổi, thống nhất với nhau về một số vấn đề khác cần kiến nghị với viện kiểm sát giải quyết trong giai đoạn truy tố như việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; kiến nghị công nhận và đưa vào Cáo trạng các tình tiết có ý nghĩa, có lợi cho bị can trong vụ án nhưng chưa được đề cập trong bản kết luận điều tra vụ án như đặc điểm nhân thân của bị can, các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nguyên nhân và điều kiện, hoàn cảnh phạm tội...

Xem thêm: Thù lao luật sư và Chi phí pháp lý tại Công ty Luật TNHH Everest

III- KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA: TRAO ĐỔI TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM

Gặp, trao đổi với bị can trong giai đoạn Tòa án chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử là một trong những kỹ năng quan trọng trong quá trình luật sư bào chữa thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ của mình. Yêu cầu của các buổi gặp, trao đổi với bị can trong giai đoạn cận xét xử là luật sư phải cung cấp cho bị can kiến thức cơ bản về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, tạo tư tưởng thoải mái cho bị can trước phiên tòa xét xử, phải hình thành nên cơ chế hợp tác, có được sự phối hợp ăn ý của luật sư với bị cáo tại phiên tòa để đạt hiệu quả cao nhất trong việc bào chữa cho bị cáo.

Sau khi viện kiểm sát ban hành bản Cáo trạng và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án hình sự sang Tòa án cùng cấp chuẩn bị cho công tác xét xử, người bào chữa cần bố trí ngay thời gian gần nhất để vào cơ sở giam giữ (nếu bị can đang bị tạm giam) hoặc đặt lịch hẹn gặp bị can tại trụ sở tổ chức hành nghề luật sư để gặp, trao đổi với bị can mà mình nhận bào chữa, bảo vệ. Nội dung và phạm vi luật sư bào chữa trao đổi với bị can để chuẩn bị cho giai đoạn trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa sơ thẩm có thể không giống nhau, phụ thuộc vào kinh nghiệm và phương pháp bào chữa của một luật sư bào chữa, tuy nhiên cần đảm bảo tối thiểu các nội dung chính như sau:

- Phổ biến, giải thích cho bị can/bị cáo hiểu về quyền, nghĩa vụ của bị can/bị cáo khi tham gia phiên tòa, về thành phần Hội đồng xét xử, về trình tự phiên tòa hình sự sơ thẩm. Phân tích cho bị cáo một số tình huống phát sinh khi tham gia tố tụng tại Tòa án các cấp như việc thay đổi người tiến hành tố tụng, hoãn phiên tòa, tạm dừng phiên tòa, trả hồ sơ điều tra bổ sung...

- Hướng dẫn cho bị cáo cách xưng hô vớiHội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng khác, cách thức trình bày lời khai, đối chất tại phiên tòa

- Trao đổi, thống nhất với bị cáo xem có cần triệu tập thêm người làm chứng đến Tòa án để tham gia tố tụng, đưa thêm các tài liệu, chứng cứ ra xem xét hay không. Ví dụ: Trong trường hợp có người làm chứng có lợi cho bị cáo nhưng trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử Hội đồng xét xử chưa đưa vào danh sách triệu tập đến Tòa, qua trao đổi với bị cáo, xét thấy việc có mặt của người làm chứng đó tại phiên tòa sẽ có lợi cho bị cáo thì luật sư bào chữa sẽ soạn thảo văn bản đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập thêm người làm chứng đó đến Tòa tham gia tố tụng.

- Thống nhất với bị cáo các vấn đề về mặt nội dung như:

(i) Trao đổi về dự kiến các phương án bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho bị cáo khi xét xử tại Tòa án sau khi luật sư bào chữa đã sao chụp, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; Trao đổi, phân tích về các điểm thuận lợi, bất lợi khi áp dụng từng phương án bào chữa cho bị cáo để bị cáo có ý kiến lựa chọn phương án hoặc đề nghị luật sư quyết định phương án tối ưu cho bị cáo theo kinh nghiệm hành nghề của luật sư; trao đổi về kế hoạch hỏi của luật sư.

Theo kinh nghiệm, ở cuối buổi gặp, trao đổi với bị cáo trong giai đoạn cận xét xử luật sư bào chữa cần chốt lại phương án bào chữa, luật sư sẽ áp dụng cho bị cáo tại phiên tòa để bị cáo có định hướng chuẩn bị nội dung khai báo, trình bày phù hợp, thống nhất với phương án bào chữa, nội dung tranh luận của luật sư với đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa. Khi chốt phương án bào chữa với bị cáo, luật sư cần tóm tắt lại nội dung ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu, dễ nhớ. Khi cần thiết có thể căn dặn thêm các dấu hiệu trao đổi riêng của luật sư đối với bị cáo khi đang tham gia tố tụng tại phiên tòa để tạo cơ chế phối hợp ăn ý giữa luật sư với bị cáo đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình thực hiện trách nhiệm bào chữa của luật sư cho bị cáo.

(ii) Trao đổi với bị cáo về vấn đề trách nhiệm của bị cáo trong việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thiệt hại về vật chất, tinh thần cho người bị hại (nếu có).

- Hướng dẫn cho bị cáo tự bào chữa, trình bày ý kiến về nội dung bào chữa của luật sư.

Tùy theo phương án bào chữa cho bị cáo và quan điểm của kiểm sát viên trình bày trong bản luận tội, luật sư sẽ xác định cụ thể nội dung tranh luận. Trường hợp luật sư bào chữa cho bị cáo theo hướng không có tội thì trao đổi cho bị cáo biết luật sư bào chữa sẽ tập trung tranh luận để chứng minh bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội như luận tội của kiểm sát viên hoặc hành vi đã thực hiện của bị cáo không thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm mà viện kiểm sát đã truy tố. Luật sư cùng cần căn dặn bị cáo lắng nghe phần tranh luận của luật sư, khi được Hội đồng xét xử hỏi về ý kiến của bị cáo với nội dung tranh luận nội dung bào chữa của luật sư thì cần bày tỏ quan điểm, ý kiến đồng tình khi cần thiết bị cáo có thể bổ sung ý kiến tranh luận với đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.

Trường hợp luật sư bào chữa cho bị cáo theo hướng chuyển sang tội danh khác nhẹ hơn tội danh đã truy tố thì luật sư bào chữa trao đổi với bị cáo nội dung phần tranh luận của luật sư sẽ tập trung vào việc nêu ra luận điểm đề nghị kiểm sát viên tranh luận để chứng minh làm rõ về nhận thức pháp luật, ý thức chủ quan của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, về động cơ, mục đích phạm tội... không thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm mà viện kiểm sát đã truy tố, Hội đồng xét xử đang xét xử mà thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm khác.

Trường hợp luật sư bào chữa cho bị cáo theo hướng giảm nhẹ TNHS (hành vi bị cáo thực hiện đã cấu thành tội phạm) thì luật sư bào chữa trao đổi với bị cáo nội dung phần tranh luận của luật sư bào chữa sẽ tập trung vào việc đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi cho bị cáo nếu kiểm sát viên chưa đề xuất áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS đó, tại bài bào chữa cũng tập trung phân tích các tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo, phân tích về điều kiện, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo nhằm đạt mục tiêu được v xem xét có lợi khi quyết định hình phạt, được hưởng chính sách khoan hồng đối với bị cáo.

- Hướng dẫn bị cáo cách thức và nội dung của lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án.

Quá trình người bào chữa trao đổi với bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cần lưu ý không được tạo tâm lý căng thẳng cho bị cáo trước khi ra phiên tòa, không nên trao đổi quá nhiều nội dung không liên quan đến vụ án làm bị cáo phân tán tư tưởng, rối trí.

Xem thêm: Dịch vụ luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Công ty Luật TNHH Everest

IV- KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA: TRAO ĐỔI SAU KHI XÉT XỬ SƠ THẨM

Kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm là thời điểm luật sư bào chữa nhìn nhận, đánh giá được kết quả, thành quả lao động trí tuệ của mình trong cả một giai đoạn tố tụng và trao đổi, giải thích, định hướng cho bị cáo là khách hàng của mình về quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án (nếu cần thiết) sau khi kết thúc xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

Đối với bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam, dẫn giải đến Tòa để xét xử, luật sư bào chữa cần tranh thủ ngay thời gian mới bế mạc phiên tòa để tiếp cận, trao đổi với thân chủ của mình ngay tại phiên xét xử. Trước khi tiếp cận, trao đổi với bị cáo, luật sư cần đặt vấn đề, đề nghị lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp dành cho luật sư bào chữa và bị cáo gặp riêng từ 05 đến 10 phút để trao đổi. Khi vừa kết thúc phiên tòa sơ thẩm, luật sư bào chữa cần chủ động đánh giá, phân tích những điểm đạt và chưa đạt trong Ity khai, trình bày của bị cáo tại phiên tòa để bị cáo rút kinh nghiệm, phát huy ở phiên tòa xét xử phúc thẩm (nếu có).

Căn cứ kết quả của Bản án hình sự Hội đồng xét xử mới tuyên, luật sư bào chữa và bị cáo sẽ trao đổi, thống nhất việc có hay không làm Đơn kháng cáo (nếu vừa xét xử sơ thẩm), có hay không làm Đơn kiến nghị xem xét giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu vừa xét xử phúc thẩm).

Quá trình trao đổi về kháng cáo bản án sơ thẩm, luật sư bào chữa là người định hướng, tư vấn dựa trên kiến thức pháp luật, dựa trên kinh nghiệm hành nghề luật sư nhưng vẫn phải tôn trọng quyền quyết định có hay không kháng cáo của bị cáo, tuyệt đối không thúc ép bị cáo làm Đơn kháng cáo theo ý chí chủ quan của luật sư, cũng không được làm sẵn Đơn kháng cáo đưa cho bị cáo ký. Nếu bị cáo có nguyện vọng kháng cáo luật sư cần hướng dẫn cho bị cáo xin mẫu Đơn kháng cáo tại cơ sở đang giam giữ, hướng dẫn bị cáo cách trình bày nội dung kháng cáo như người kháng cáo, căn cứ kháng cáo, yêu cầu kháng cáo, phạm vi kháng cáo trong Đơn kháng cáo.

Phần phạm vi kháng cáo cần nêu rõ 01 trong các phạm vi như: kháng cáo toàn bộ bản án hay kháng cáo một phần bản án, kháng cáo phần tội danh hay áp dụng hình phạt, mức hình phạt hay kháng cáo về mức bồi thường thiệt hại dân sự... Luật sư bào chữa cũng cần hướng dẫn bị cáo thời điểm nộp Đơn kháng cáo, cần suy nghĩ kỹ trước khi nộp Đơn kháng cáo, chỉ nộp trước khi sắp hết thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án để có thể bổ sung nội dung khi thấy cần thiết.

Đối với bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú, việc gặp, trao đổi của luật sư bào chữa với bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa xét xử có nhiều điểm thuận lợi hơn so với gặp, trao đổi cũng không bị gò bó về không gian, địa điểm. Luật sư bào chữa có thể chọn lựa địa điểm đặt lịch hẹn bị cáo trao đổi sau khi kết thúc phiên tòa tại trụ sở hoặc văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư hoặc gặp tại nhà riêng của bị cáo hoặc địa điểm khác trong trường hợp bị cáo là người già yếu, là người đang mắc bệnh, bị cáo là người dưới 18 tuổi . Căn cứ kết quả của bản án hình sự Hội đồng xét xử mới tuyên, luật sư bào chữa và bị cáo sẽ trao đổi thống nhất về việc có hay không làm Đơn kháng cáo. Sau khi có sự thống nhất về việc kháng cáo bản án sơ thẩm thì luật sư có thể trực tiếp soạn thảo Đơn kháng cáo, hướng dẫn cho bị cáo ký và gửi đến Tòa án hoặc người có thẩm quyền trong thời hạn luật định.

Luật sư cần tư vấn cho bị cáo nắm được trường hợp kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm thì bị cáo gửi Đơn kháng cáo tới Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Kèm theo Đơn kháng cáo, luật sư cũng cần tư vấn cho bị cáo, nếu có thêm các tài liệu, chứng cứ mới để làm rõ căn cứ kháng cáo thì đính kèm đơn để việc xét kháng cáo được khách quan, có căn cứ pháp luật.

Trong trường hợp luật sư bào chữa cho thân chủ là người chưa đủ 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì luật sư bào chữa có quyền tự mình làm, ký và gửi Đơn kháng cáo cho thân chủ tới Tòa án có thẩm quyền sau khi đã trao đổi với bị cáo và người đại diện của người dưới 18 tuổi, hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần về mục đích, ý nghĩa, sự cần thiết của việc kháng cáo nếu việc kháng cáo có lợi cho thân chủ của mình.

Xem thêm: Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH Everest 

Luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc điều hành của Công ty Luật TNHH Everest, tổng hợp (tham khảo: Giáo trình Kỹ năng của Luật sư khi tham gia giải quyết vụ án hình sự - Học viện Tư pháp và một số nguồn khác).

Liên hệ tư vấn
Liên hệ tư vấn

Chuyên viên tư vấn sẵn sàng hỗ trợ!

Tư vấn sử dụng dịch vụ miễn phí

Hoặc
Đăng ký tư vấn
Công ty luật TNHH Everest - Công ty Luật uy tín tại Việt Nam

Everest
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu
Thương hiệu tư vấn pháp lý hàng đầu

Top 20 thương hiệu vàng Việt Nam

Tự hào là đối tác thương hiệu lớn
Video
Everest - Hành trình vượt khó cùng đối tác
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp
Gặp các chuyên gia Đội ngũ Luật sư giàu kinh nghiệm
Để làm được những điều đó, mỗi một luật sư thành viên thuộc Hãng luật của chúng tôi đều phải rèn luyện không ngừng để có kiến thức Uyên thâm về chuyên môn, luôn đặt Tình yêu và Trách nhiệm vào công việc
4.7 5 (1 đánh giá)
0 bình luận, đánh giá về Kỹ năng của luật sư: trao đổi với người bị buộc tội trong vụ án hình sự

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận sản phẩm
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
0.55226 sec| 1224.578 kb