Khái quát về Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

13/02/2023
Đặng Thu Trang
Đặng Thu Trang
Khái niệm “Luật Hôn nhân và gia đình” có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: a. Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một ngành luật; b. Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một môn học; c. Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một bộ phận pháp luật: pháp luật về hôn nhân và gia đình; d. Luật Hôn nhân và gia đình với ỷ nghĩa là một vẫn bản pháp luật cụ thể. Ngoài ra, vấn đề đặt ra cho khoa học pháp lí là xác định vị trí của các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống các ngành luật. Trong thực tế, các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản cũng là đối tượng điềư chỉnh của Luật dân sự và một số ngành luật khác. Vậy, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh giữa các thành viên trong gia đình có tạo thành một ngành luật độc lập hay không? Hay chúng chỉ hợp thành một bộ phận, một chế định riêng biệt của Luật dân sự?

I. KHÁI NIỆM LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM. VỊ TRÍ CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

1- Khái niệm Luật Hôn nhân và gia đình:

Khái niệm “Luật Hôn nhân và gia đình” có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:

a. Là một ngành luật.

b. Một môn học.

c. Một bộ phận của khoa học pháp lí.

d. Một văn bản pháp luật cụ thể

a. Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một ngành luật

Đây là sự phân loại dựa vào cấu trúc bên trong của hệ thống pháp luật. Sự phân loại này chủ yếu có ý nghĩa học thuật. Khác với các nước theo hệ thống pháp luật chung (Common law), các nước theo hệ thống pháp luật lục địa (trong đó có Việt Nam) phân chia hệ thống pháp luật quốc gia thành những ngành luật khác nhau dựa vào các nhóm quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh (đối tượng) và phưong thức mà nó tác động lên các quan hệ xã hội đó (phương pháp điều chỉnh). Sự phân chia như vậy có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn, nhằm điều chỉnh pháp luật tốt hơn đối với từng lĩnh vực xã hội riêng biệt. Tuy nhiên, sự phân chia đó cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong hệ thống pháp luật châu Âu, luật gia đình không phải là ngành luật độc lập mà chỉ là một chế định, một bộ phận của luật dân sự.

Với ý nghĩa là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia xã hội chủ nghĩa, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thể chế hóa nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình về những lợi ích nhân thân và những lợi ích về tài sản.

b. Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một môn học

Là hệ thống những khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang tính chất lí luận về hôn nhân và gia đình và thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật hôn nhân gia đình.

c. Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một bộ phận pháp luật: pháp luật về hôn nhân và gia đình

Pháp luật về hôn nhân và gia đình là một khái niệm tích hợp bởi khái niệm “pháp luật” với khái niệm “hôn nhân và gia đình”.

d. Luật Hôn nhân và gia đình với ỷ nghĩa là một vẫn bản pháp luật cụ thể

Cần phân biệt Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một ngành luật với Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể. Văn bản pháp luật cụ thể là kết quả của công tác hệ thống hóa pháp luật, xây dựng pháp luật, trong đó chứa đựng những quy phạm của nhiều ngành luật, tuy nhiên, nội dung chủ yếu là quy phạm của một ngành luật cơ bản nào đó. Ví dụ: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014... Luật Hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một ngành luật chỉ gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội giữa các thành viên gia đình: vợ và chồng, cha mẹ - các con, anh, chị, em... về những lợi ích thân nhân và nhũng lợi ích về tài sản. Đối với những quan hệ thân nhân và tài sản, những phát sinh giữa các cơ quan nhà nuớc, tổ chức xã hội với các thành, viên của gia đình mặc dù nhằm củng cố gia đình, đều do các hgành luật khác điều chỉnh. Mặt khác, cũng chỉ những quan hệ thân nhân và quan hệ tài sản đặc thù mới thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình.

2- Vị trí của Luật Hôn nhân và gia đình, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình:

- Vị trí của Luật Hôn nhân và gia đình

Vấn đề đặt ra cho khoa học pháp lí là xác định vị trí của các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống các ngành luật. Trong thực tế, các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản cũng là đối tượng điềư chỉnh của Luật dân sự và một số ngành luật khác. Vậy, tổng họp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh giữa các thành viên trong gia đình có tạo thành một ngành luật độc lập hay không? Hay chúng chỉ hợp thành một bộ phận, một chế định riêng biệt của Luật dân sự?

Quan điểm của các chuyên gia nghiên cứu ở nước ta cũng như các nước khác chưa có sự thống nhất về vấn đề này. Một số ý kiến cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình là một bộ phận chuyên ngành của Luật dân sự.

Quan điểm thứ hai coi Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập.

Quan điểm thứ ba cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật hỗn hợp hoặc một ngành luật cùng loại với Luật dân sự.

Khoa học pháp lí ở nước ta chưa đề cập nhiều đến vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn có sự không thống nhất khi phân loại các ngành luật nói chung và Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng. Đa số các nhà chuyên môn cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập. Quan điểm này được chứng minh dựa trên nền tảng cơ sở kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa: chế độ công hữu đối với tư liệu sản xuất quyết định tính chất các quan hệ xã hội, kể cả quan hệ hôn nhân và gia đình.

- Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình:

Tuy nhiên theo chúng tôi, vấn đề về sự phân định các ngành luật trong hệ thống pháp luật chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào hai tiêu chí là đối tượng và phương pháp điều chỉnh, vấn đề này chỉ mang tính học thuật và khồng còn được quan tâm nhiều trong những thập kỉ gần đây. Luật Hôn nhân và gia đình, ngay tên gọi của nó, có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, tức là những lĩnh vực mang tính xã hội, gắn liền với những quyền cơ bản của con người về bình đẳng và tự do. Cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền này không chỉ có dân sự, hành chính mà toàn bộ hệ thống pháp luật. Cho nên, nếu chỉ nhìn nhận luật hôn nhân và gia đình dưới góc độ có đối tượng điều chỉnh là những quan hệ nhân thân và tài sản giữa các thành viên trong gia đình thì nó là bộ phận chuyên ngành của luật dân sự, tương tự như luật lao động, luật thương mại. Trong hệ thống pháp luật, chỉ có một số ngành luật cơ bản là có đối tượng và phương pháp điều chỉnh rõ ràng như: Luật hiến pháp, Luật dân sự, Luật hành chính, Luật hình sự; và đi cùng với những ngành luật về nội dung đó là những ngành luật về hình thức, thủ tục tố tụng tương ứng: tố tụng bảo hiến, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng hình sự.

Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, thực tiễn xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, làm thế nào để pháp luật hôn nhân và gia đình đi vào cuộc sống nếu như các quy phạm của nó chỉ mang tính chất hướng dẫn, khuyến khích thực hiện, mà không dựa vào hệ thống các chế tài, nhất là những chế tài dân sự, hình sự. Trong thực tế, một người hoàn toàn có lỗi trong việc gây mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn vợ chồng, lại có thể được quan tâm bảo vệ lợi ích “bình đẳng” với bên kia, thậm chí được quan tâm hơn nếu đó là phụ nữ. Thực tế đó dẫn tới hậu quả nhiều khi các quy phạm pháp luật trở nên “gò bó” hoặc quá “mờ nhạt” không còn là chuẩn mực đúng đắn cho các hành vi xử sự của mọi người. Quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ của những người có mối liên hệ tình cảm thân thích đặc biệt. Vì vậy, đối với những quan hệ này, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau trước hết do tình cảm chi phối. Phương pháp khuyến khích, hướng dẫn thực hiện có ý nghĩa quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình. Có thể nói, pháp luật chỉ là yêu cầu tối thiểu trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Khi xây dựng Dự thảo Bộ luật Dân sự, đã có rất nhiều ý kiến đề nghị đưa các vấn đề hôn nhân và gia đình vào trong Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, hiện nay cùng đồng thời với việc tồn tại một đạo luật riêng về hôn nhân và gia đình, trong Bộ luật Dân sự Việt Nam đã có một số quy định về quyền nhân thân và tài sản trong hôn nhân và gia đình (Điều 39, 43, 212, 213 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Theo chúng tôi, dù có những nét đặc thù, các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình và các quan hệ dân sự là những loại quan hệ cùng loại. Những vấn đề về sở hữu, giám hộ trong gia đình đều có nguồn gốc chung từ Luật dân sự. Trong các Bộ luật Dân sự Việt Nam đã có một số quy định về vấn đề kết hôn, li hôn, tài sản chung của vợ chồng, của các thành viên khác trong gia đình và các vấn đề khác.

Xét về hình thức, đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có nhiều điểm giống với đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự. Tuy nhiên, các quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình vẫn có nhiều nét đặc thù. Những đặc thù này có ảnh hưởng lớn đến thi hành và áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.

Về nội dung, đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có những đặc trưng sau đây:

i. Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định trong các quan hệ hôn nhân và gia đình.

ii. Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là một đặc điểm trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Với tư cách là cha mẹ, vợ chồng, con trong mối quan hệ giữa họ với nhau thì điều gắn bó họ trước hết là tình cảm. Đó là tình thương yêu của vợ, chồng, tình máu mủ ruột thịt giữa cha mẹ và các con...

iii. Quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người khác được.

iv. Quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình bền vững, lâu dài, không mang tính chất đền bù ngang giá như các quyền khác trong luật dân sự. Tính chất này được quy định bởi tính chất bền vững, lâu dài của hôn nhân và gia đình. Mặt khác, nó còn thể hiện trong việc quy định việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ - các con, giữa các thành viên trong gia đình, không phải thực hiện một lần cho xong nghĩa vụ mà thực hiện hàng tháng, hàng năm, nhiều khi là suốt đời.

Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh với các đặc điểm của nó như đã nêu trên, Luật Hôn nhân và gia đình có phương pháp điều chỉnh đặc biệt, thích hợp với nó.

Có thể dễ dàng nhận thấy về nguyên tắc, phương pháp điều chỉnh như bình đắng, thoả thuận của Luật dân sự là cơ sở cho việc áp dụng, vấn đề điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình còn có những đặc điểm sau:

i. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền đồng thời là nghĩa vụ của các chủ thể.

Ví dụ: Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng cỏ nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chầm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chìa sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình... ”. Theo quy định đó, nghĩa vụ của vợ đồng thời là quyền của chồng và ngược lại.

ii. Các chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình.

iii. Các chủ thể không được phép bằng sự thoả thuận để làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định.

iv. Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình được đảm bảo bởi tính cưỡng chế của Nhà nước trên tinh thần phát huy tính tự giác thông qua giáo dục, khuyến khích và hướng dẫn thực hiện.

Nghiên cứu những đặc điểm của đối tượng và phương pháp điều chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất lớn. Quán triệt đầy đủ các đặc điểm đó là cơ sở đảm bảo thực hiện và áp dụng đúng đắn Luật Hôn nhân và gia đình.

II. NHIỆM VỤ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.

1- Nhiệm vụ điều chỉnh pháp luật và vấn đề bảo vệ, củng cố gia đình ở Việt Nam hiện nay:

Mọi người đều sinh ra có quyền tự do, bình đẳng, trong đó có quyền tự do, bình đẳng về hôn nhân và gia đình. Gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của mỗi người trong xã hội. Gia đình là cơ sở tự nhiên và xã hội cho sự phát triển của mỗi cá nhân. Chính nhờ gia đình, thông qua những mối liên hệ giữa các cá nhân thuộc các thế hệ nối tiếp, con người tiếp nhận những giá trị văn hóa, đạo đức, truyền thống,... và từ đó tạo lập nền tảng cho các giá trị xã hội đích thực, các chuẩn mực cho hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội.

Hiến pháp năm 1992 đã xác định vai trò quan trọng của gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nhấn mạnh: Gia đình là hạt nhân của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Quan điểm xây dựng một chế độ gia đình mới trong đó đảm bảo hạnh phúc, hòa thuận giữa các thành viên được xác định rõ trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kì.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xă hội đã khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giảo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chủ ý tới xây dựng gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ, nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi người ”.

Các tổ chức và các phong trào dân chủ trên thế giới đều nhấn mạnh tầm quan trọng của gia đình. Khoản 3 Điều 16 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền được Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948 tuyên bố: “Gia đình ỉà yếu tố tự nhiên và cơ bản của xã hội, và có quyền được sự bảo trợ của xã hội và Nhà nước”. Trong lời nói đầu của Công uớc về quyền trẻ em năm 1989 đã nhấn mạnh, gia đình là nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên, cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để có thể đảm đương được đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng. Những tư tưởng đó cũng được thể hiện trong Công ước của Liên họp quốc về việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ.

Ở nước ta, vấn đề bảo hộ hôn nhân và gia đình đã trở thành một nguyên tắc hiến định (Điều 64 Hiến pháp năm 1980, Điều 64 Hiến pháp năm 1992, Điều 36 Hiến pháp năm 2013). Nội dung của nguyên tắc đó đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau: Luật dân sự, Luật lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật hình sự... Tuy nhiên, nội dung điều chỉnh pháp luật các quan hệ hôn nhân và gia đình từ trước đến nay về cơ bản mới chỉ tập trung nhấn mạnh xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình cũ, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới trên những nét đại thể mang tính nguyên tắc như vấn đề tự do kết hôn và li hôn, bình đẳng vợ chồng, quyền độc lập của con cái, không phân biệt đối xử giữa các con,...

Thực tế trong những năm gần đây rất nhiều gia đình không bảo đảm được vai trò như mong muốn. Bên cạnh nhũng thành công nhất định về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, còn tồn tại những tiêu cực, khủng hoảng như: số vụ li hôn ngày càng cao, trẻ em vị thành niên phạm pháp tăng, các tệ nạn xã hội như mại dâm, nghiện ma tuý cũng gia tăng... làm lung lay, đổ vỡ hàng vạn gia đinh. Thực trạng đó là cơ sở để chúng ta xem xét lại nội dung và quan niệm về điều chỉnh pháp luật.

Điều chỉnh pháp luật các quan hệ về hôn nhân và gia đình cần phải xuất phát từ tính chất đặc thù của các quan hệ đó. Chính vì vậy, đối với các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hỗn nhân và gia đình, pháp luật chỉ là một trong nhiều biện pháp, một bộ phận trong toàn hệ thống các quy phạm pháp luật, hệ thống các quy tắc xã hội. Tác động trực tiếp lên các hành vi trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình trước hết là yếu tố tình cảm, văn hóa, tập quán. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã thể hiện được tinh thần pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời đại mới với những nét chủ yếu sau đây:

Trước hết, đã có quan niệm đúng đắn và đầy đủ về gia đình. Không còn cách hiểu gia đình chỉ là tập hợp nhiều người lại với nhau theo cấu trúc đơn giản. Gia đình là một thiết chế xã hội, là tế bào của xã hội. Thực tiễn đã cho thấy, khái niệm gia đình không thể chỉ dừng lại trong phạm vi gia đình đơn, hạn chế trong quan hệ vợ chồng, cha mẹ và các con cùng một số thành viên khác. Các kết quả nghiên cứu xã hội học về gia đình thường nhấn mạnh đến cấu trúc gia đình đơn như một xu hướng phát triển trong xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển của xã hội, của sản xuất, sự phát triển kinh tế, văn hóa kéo theo sự xuất hiện những đơn vị gia đình đơn, chỉ gồm một đến hai thế hệ. Đơn vị gia đình này phải được tồn tại và phát triển trong môi trường của gia đình truyền thống, trong sự gắn kết với các thế hệ tiếp nối nhau. Sự phát triển của nhân cách chỉ có thể là hài hòa, bền vững, con người chỉ có thể hạnh phúc trong môi trường tình cảm gắn bó của gia đình. Gia đình đó gồm các thành viên thuộc nhiều thế hệ họ hàng bên nội, bên ngoại. Ngoài cha mẹ và các con, vợ và chồng, còn có ông bà với các cháu, cô, cậu, dì, chú, bác, cụ, kị, mặc dù họ có thể không sống chung với nhau nhưng họ gắn bó, ràng buộc với nhau bởi những mối liên hệ thân thuộc, gần gũi. Vì vậy, điều chỉnh pháp luật các quan hệ gia đình ở Việt Nam nhằm hướng tới mục tiêu xác định được mức độ thứ bậc của quan hệ về quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lí giữa các chủ thể quan hệ gia đình. Sự đa dạng, phong phú của các quan hệ gia đình, thực chất cũng là những quan hệ xã hội gắn kết bởi tình cảm ruột thịt, đùm bọc nhau, là cơ sở cho sự phát triển nhân cách hài hòa, cho sự phát triển bền vững, không chỉ cho mỗi cá nhân mà còn cho cộng đồng, xã hội. Chính vì vậy, khoản 16 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột”.

Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng và sửa đổi các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo sự thống nhất đồng bộ trong điều chỉnh pháp luật. Sự thống nhất đồng bộ trước hết được thể hiện ở tính hệ thống của pháp luật. Sự thống nhất, đồng bộ trong điều chỉnh pháp luật các quan hệ về hôn nhân và gia đình còn gắn liền với tính toàn diện. Mỗi cá nhân là một thành viên của một gia đình nhất định, đồng thời có thể là chủ doanh nghiệp, hoặc xã viên hợp tác xã, công chức Nhà nước... Vì vậy, để đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình được thực hiện, xung quanh cái “trục” cơ bản là Luật về hôn nhân và gia đình, cần phải có đầy đủ các chế định, các thiết chế và cơ chế thích ứng. Quá trình điều chỉnh pháp luật ở nước ta đã cho thấy sức sống riêng, đặc thù của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Điều đó không có nghĩa là luật về hôn nhân và gia đình biệt lập hẳn mà vẫn luôn gắn bó mật thiết với các ngành luật khác tạo nên một hệ thống chỉnh thể. Tính hệ thống này là cơ sở quan trọng đảm bảo cho các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống.

Thứ hai, các quan hệ về hôn nhân và gia đình mang yếu tố tình cảm riêng tư, tự nhiên, gắn với mỗi con người, mỗi gia đình, họ tộc cụ thể. ở đây yếu tố tư tưởng tình cảm có ảnh hưởng lớn đến thi hành và thực hiện pháp luật. Vì vậy, cần phải có các biện pháp linh hoạt, mềm dẻo, khuyến khích các chủ thể tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình là chủ yếu đồng thời phải có các biện pháp chế tài cưỡng chế, bắt buộc đối với những trường hợp cố tình vi phạm pháp luật. Pháp luật hiện hành đã có hệ thống các chế tài dân sự, hành chính, hình sự, còn cơ chế đảm bảo thực thi đang từng bước hoàn thiện.

Thứ ba, con người và gia đình luôn gắn bó với mỗi dân tộc, quê hương, làng xóm, đây là tâm hồn con người Việt Nam. Vì vậy, yếu tố văn hóa truyền thống, đạo đức là nền tảng cơ bản, là cái gốc điều chỉnh cho pháp luật. Điều chỉnh pháp luật các quan hệ hôn nhân và gia đình sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi nó kết họp với việc phát huy các yếu tố văn hóa truyền thống đa dạng, phong phú của mỗi dân tộc trong cộng đồng xã hội Việt Nam. Ngoài ra, cần phải xác định rằng trong lĩnh vực hồn nhân và gia đình, pháp luật chỉ là giới hạn tối thiểu mà mỗi người phải nghiêm chỉnh thực hiện. Cùng đồng thời với nó phải có một hệ thống các quy tắc xử sự mang tính xã hội đa dạng làm nền tảng. Các quy tắc đó có thể là quy chế của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, cộng đồng, hiệp hội hoặc tôn giáo.

Thứ tư, bản chất pháp lí của các quan hệ hôn nhân và gia đình là những quan hệ thuộc lĩnh vực “luật tư”, nghĩa là quan hệ bình đẳng, thoả thuận giữa các chủ thể trên cơ sở tự do, tự nguyện ý chí của cá nhân. Tuy nhiên, chúng được coi là quan hệ hợp pháp thông qua cơ chế áp dụng pháp luật của các cơ quan công quyền. Vì vậy, về mặt kĩ thuật lập pháp, các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình phải kết hựp giữa quy phạm tuỳ nghi - lựa chọn với những quy phạm mệnh lệnh. Vỉ dụ: Trong việc kết hôn, đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là bắt buộc, còn tổ chức lễ cưới là nghi thức do các bên lựa chọn và phải được tôn trọng. Trong các văn bản pháp luật hiện hành về hôn nhân và gia đình còn thiếu vắng nhiều loại quy phạm tuỳ nghi - lựa chọn. Còn quy chế cưới hỏi của một số nơi thì khuôn mẫu theo kiểu bắt buộc, cần phải có biện pháp khắc phục tình trạng này.

Thứ năm, hôn nhân là cơ sở của gia đình, do đó hôn nhân khác với tình bạn, hôn nhân không chỉ là việc riêng tư của cá nhân, mà còn là đối tượng lập pháp. Hơn nữa, sau khi kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng là quan hệ gia đình. Sự tách rời hôn nhân khỏi gia đình trong điều chỉnh pháp luật sẽ làm cho quan hệ hôn nhân bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân được ngụy trang bằng chế độ “tự do ý chí”, “tự do hôn nhân”. Trong nhiều vụ li hôn hiện nay, quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trên thực tế không được đảm bảo. Lối sống tự do, thiếu trách nhiệm, ích kỉ cá nhân của một số đối tượng đang làm xói mòn đạo đức gia đình và xã hội. Cùng với hệ thống pháp luật, cần phải nghiên cứu để xây dựng những chuẩn mực đạo đức, thang bậc giá trị xã hội đế xây dựng nhân cách con người, hướng tới những “chính nhân quân tử” trong thời đại mới. Đó cũng là mục tiêu được xác định trong chiến lược phát triển văn hóa xã hội, xây dựng nền tảng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là yêu cầu của việc nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thật sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội.

Thứ sáu, xác định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình.

Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình là qưan hệ thuộc luật tư. Tuy nhiên, các quyền về hôn nhân và gia đình là những quyền con người về dân sự. Để các quyền này được thực hiện thì việc xác định trách nhiệm của nhà nước và xã hội là một điều cần thiết. Bộ luật Dân sự đã quy định, nhà nước không can thiệp và không hạn chế các quyền dân sự của con người và công dân. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để các chủ thể gia đình thực hiện các quyền của mình (Điều 4).

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và quan hệ gia đình nhằm mục đích xây dựng, củng cố và bảo vệ che độ hôn nhân và gia đình mới phù hợp với yêu cầu cách mạng. Trong từng thời kì phát triển, Luật Hôn nhân và gia đình phải đặt ra những nhiệm vụ đáp ứng với tình hình cụ thể.

Kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình từ Cách mạng tháng Tám đến nay, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác định nhiệm vụ: quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp ỉỉ cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cả nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình ” (Điều 1).

2- Những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

Nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình là những nguyên lí,những tư tưởng chỉ đạo, có ý nghĩa xuyên suốt, quán triệt toàn bộ hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình.

Nội dung các nguyên tắc cơ bản thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về điều chỉnh pháp luật đối với nhiệm vụ và chức năng của mỗi thành viên trong gia đình, các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình mới.

Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình như sau:

1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

2 Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.

4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.

Nội dung các nguyên tắc cơ bản nêu trên được thể hiện trong toàn bộ các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình, được quán triệt trong hoạt động thực tiễn thi hành, quá trình thực hiện.

Nhằm cụ thể hóa nội dung Hiến pháp năm 2013, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã khẳng định trách nhiệm của Nhà nước, xã hội trong việc bảo vệ, củng cố gia đình, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, đề cao nghĩa vụ của các thành viên gia đình trong việc tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau về mọi mặt.

a. Nguyên tắc hôn nhân tự nguyên, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ

Duới chế độ phong kiến, cha mẹ quyết định việc kết hôn của con cái, cưỡng ép hôn nhân cho nên tình yêu không thể là cơ sở của hôn nhân được. Giai cấp tư sản cũng tuyên bố tự do hôn nhân. Tuy vậy, hôn nhân chỉ tự do khi nó được xây dựng dựa trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, nghĩa là không bị những tính toán vật chất, địa vị xã hội chi phối.

Về nguyên lý, dưới chủ nghĩa xã hội, khi đã xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệư sản xuất, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa thì mới có điều kiện đảm bảo hôn nhân tự do thực sự, nghĩa là hôn nhân dựa trên cơ sở tinh yêu chân chính giũa nam và nữ. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ bảo hộ hôn nhân tự nguyện, nghĩa là trong quan hệ hôn nhân, khi kết hôn cũng như khi li hôn, hai bên hoàn toàn tự nguyện; còn việc kết hôn đó có phải là kết quả của tình yêu hay không thì dù đó là mục tiêu hướng tới, nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Hiến pháp Việt Nam quy định: “1. Nam nữ cỏ quyền kết hôn, ỉỉ hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyên, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi bà mẹ và trẻ em” (Điều 36 Hiến pháp năm 2013). Tại các Điều 2, 3, 4, 5, 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đều có quy định trực tiếp về chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

Điều 5 Luật Hồn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định các hành vi bị cấm và các phương thức bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình. Các hành vi bị cấm như: cấm tảo hôn, cường ép kết hôn, lừa dốỉ kết hôn, cản trở kết hôn; cấm kết hôn giả tạo, lì hôn giả tạo, cấm yêu sách của cải trong kết hôn. Điều 8 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ cũng đồng thời phải đảm bảo tự do li hôn, nếu như không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể ép buộc họ tiếp tục cuộc sống vợ chồng, khi hạnh phúc gia đình đã không thể hàn gắn, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Tất nhiên tự do li hôn không có nghĩa là li hôn tuỳ tiện. Việc li hôn phải đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Trong mọi trường họp yêu càu li hôn, Tòa án phải tiến hành hòa giải. Tòa án chỉ có thể xử cho li hôn khi thấy quan hệ vợ chồng thực sự đã đến “tĩnh trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đỉch của hôn nhân không đạt được” (khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

- Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân một vợ một chồng

Nguyên tắc một vợ một chồng xây dựng trên nền tảng hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và nam nữ bình đẳng nhằm xóa bỏ chế độ đa thê trong hôn nhân thời phong kiến, coi rẻ phụ nữ, gây nhiều đau khổ cho phụ nữ.

Bản chất của hôn nhân tự nguyện trên cơ sở tình yêu nam nữ là hôn nhân một vợ một chồng. Mặt khác, chế độ một vợ một chồng đảm bảo tình yêu giữa họ thực sự bền vững, duy trì, củng cố hạnh phúc gia đình. Hôn nhân một vợ một chồng lâu dài, bền vững và thực sự hạnh phúc.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Cấm người đang có vợ, cỏ chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác ” (Điều 4). Điều đó được khẳng định lại trong điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khi quy định những trường hợp cấm kết hôn.

Nguyên tắc một vợ một chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là sự kế thừa và phát triển nguyên tắc đó trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, năm 1986, và năm 2000. Để đảm bảo chế độ một vợ một chồng được thực hiện cả trong thực tế cuộc sống, như trên đã nêu, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và năm 2014 còn quy định cấm những người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác như vợ chồng. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa, tư tưởng và nhận thức của mỗi người. Việc thực hiện chế độ một vợ một chồng gắn liền với quyền bình đẳng giữa nam và nữ và do đó chỉ đến lúc quyền bình đẳng được xác lập hoàn toàn mới xác lập vững chắc chế độ một vợ một chồng.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chế độ một vợ một chồng xã hội chủ nghĩa khác với chế độ một vợ một chồng cổ điển, lúc mà nó vừa ra đời và tồn tại trong các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng tiếp theo. Nếu nguồn gốc của chế độ một vợ một chồng là do điều kiện về kinh tế (chế độ tư hữu) và mục đích của nó là để đảm bảo con cái do người vợ đẻ ra phải là con của chính người chồng để thừa kế tài sản mà thực chất là duy trì chế độ tư hữu bóc lột, thì chế độ một vợ một chồng xã hội chủ nghĩa lấy tình yêu chân chính giữa nam và nữ là cơ sở và với mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận. Trong xã hội theo chế độ "Phụ quyền ”, “cần phải có che độ một vợ một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía người chồng, thành thử chế độ một vợ một chông về phía người đàn bà ấy không hề làm trở ngại chút nào cho chế độ nhiều vợ công khai hay bỉ mật của người đàn ông”. Chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất - nguồn gốc của sự bóc lột, “các tư liệu sản xuất biến thành tài sản xã hội, thì chế độ lao động làm thuê - sẽ mất đi và tình trạng một sổ phụ nữ - cần phải bản mình vỉ đồng tiền mất đi. Tệ nạn mại dâm sẽ mất đỉ, và chế độ một vợ một chồng không những không bị suy tàn mà cuối cùng lại còn trở thành hiện thực, ngay cả đối với đàn ông nữa ”.

Những lời tiên đoán trên đây đã được thực tiễn cuộc sống chứng minh. Nguyên tắc một vợ một chồng là nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đinh của hầu hết các quốc gia trong thời đại văn minh. Ngày nay, chỉ còn một số quốc gia còn thừa nhận chế độ đa thê.

- Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân một vợ một chồng và bình đẳng vợ chồng

Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình trên cơ sở nguyên tắc nam nữ bình đẳng mà Hiến pháp đã quy định.

Chế độ phong kiến thừa nhận sự bất bình đẳng, đặt phụ nữ vào địa vị phụ thuộc, thấp kém. Hồ Chủ tịch đã nói: “Luật lấy vợ lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức giải phóng phần nửa xã hội, giải phỏng người đàn bà, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong người đàn ông”.

Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một bộ phận trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, “nếu không giải phỏng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có một nửa ”.

Sự bất bình đẳng đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Nếu trong thời kì cộng sản nguyên thuỷ, công việc “tề gia nội trợ” của người đàn bà coi là công việc của xã hội và do vậy người đàn bà được bình đẳng với đàn ông thì đến thời kì tiếp theo đó lại hoàn toàn khác hẳn. Với sự xuất hiện của cải dư thừa, do đó xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện gia đình cá thể mà trong đó người đàn ông trở thành ông chủ, người đàn bà là nô lệ, là tài sản của người đàn ông. Công việc “tề gia nội trợ” không được coi là công việc xã hội nữa. Nó chỉ hạn chế trong từng gia đình, phục vụ cho người chồng, cho sự thống trị, cho việc duy trì chế độ tư hữu - nguồn gốc của mọi sự bất công, bất bình đẳng trong gia đình và xã hội. Ph. Ănggen đã chỉ ra rằng: “Với gia đình gia trưởng và hơn nữa với gia đình cả thể một vợ một chồng thì... việc tề gia nội trợ mất tính chất xã hội của nó. Nó không quan hệ gì đến xã hội nữa. Nó trở thành một công việc tư nhân; người vợ trở thành người đày tớ chỉnh và bị gạt ra khỏi việc tham gia sản xuất xã hội. Chỉ có Đại cồng nghiệp ngày nay là đã mở trở lại cho họ - và chỉ mở cho phụ nữ vô sản thôi - con đường sản xuất xã hội... Tiền đề đầu tiên để giải phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia sản xuất xã hội, và điều kiện đỏ lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cả thể không còn là một đơn vị kinh tế của xã hội nữa ”. Chỉ khi nào “Các tư liệu sản xuất biến thành tài sản chung thì gia đình cả thể mới không còn là đơn vị kỉnh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế gia đình tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội... ”.

Như vậy, chỉ trong điều kiện chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ sở hữu toàn dân thì mới có thể nói đến vấn đề nam nữ bình đẳng và giải phóng phụ nữ. vấn đề không phải chỉ ở chỗ “Người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy mỏ xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ỉt thôi ”. Đó mới chỉ là tiền đề cho giải phóng phụ nữ. cần phải đảm bảo cho người phụ nữ có một địa vị vững vàng, ngang với nam giới về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình. Và như vậy, cần phải xã hội hóa mọi công việc tề gia nội trợ, coi đó là một lĩnh vực hoạt động trong hệ thống sản xuất xã hội.

Hiến pháp Việt Nam qua các thời kì đều thể hiện đường lối của Đảng, những nguyên lí của chủ nghĩa Mác " Lênin, khẳng định nếu không có tự do và bình đẳng trong gia đình thì sẽ không có tự do và bình đẳng ngoài xã hội, và nguợc lại, nếu không có tự do và bình đẳng ngoài xã hội thì cũng sẽ không có tự do và bình đẳng trong gia đình. Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dần nữ và nam cỏ quyền ngang nhau về mọi mặt chỉnh trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình Còn trong gia đình “vợ chồng bình đẳng” (Điều 36 Hiến pháp năm 2013).

Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ được cụ thể hóa trong hầu hết các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 2, Điều 4, Điều 17 đến Điều 23).

“Vợ, chồng bình đắng với nhau, cỏ quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp... ” (Điều 17). “Việc lựa chọn noi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thoả thuận” (Điều 20). Đặc biệt, nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là một bước phát triển so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khi xác định chế độ tài sản của vợ chồng: về chế độ tài sản chung theo thỏa thuận (Điều 28, 29, 33, 35, 36, 37, 38, 47, 48, 49); về chia tài sản li hôn (Điều 59, 61, 62, 63, 64,); về cấp dưỡng lẫn nhau giữa vợ chồng (Điều 107,115).

Trong mấy chục năm qua, cùng với thắng lợi trong cách mạng dân tộc, dân chủ, trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã hình thành, xác lập quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, được ghi nhận tại các văn bản pháp luật của Nhà nước. Do đó, về mặt pháp luật, địa vị của người phụ nữ đã bình đẳng với nam giới. Tuy nhiên, V.I. Lênin đã chỉ rằng: “Nhưng như thế chưa đủ. Bình đẳng về phảp luật vẫn chưa phải là bình đẳng trong thực tế đời sống. Chúng ta phải làm sao cho nữ công nhân giành được bình đẳng với nam công nhân không những về mặt pháp luật, mà cả trong thực tế đời sống nữa ”.

Từ bình đẳng trước pháp luật đến bình đẳng trong thực tế đời sống còn cả một chặng đường dài. Sự bình đẳng đó được ghi nhận và từng bước được củng cố cùng với sự phát triển của xã hội, tạo cơ sở kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội cho việc thực hiện bình đẳng hoàn toàn.

b. Hôn nhân giữa công dân Vỉệt Nam thuộc các dần tộc, tôn giáo, gỉữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giảo, giữa người có tỉn ngưỡng với người không cỏ tín ngưỡng, giữa công dần Việt Nam vớỉ người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ

Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa Hiến pháp và các Công ước quốc tế về quyền tự do và bình đẳng của con người và công dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Việc kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo, quốc tịch khác nhau là trên cơ sở tự do lựa chọn của những người trong cuộc, không bị ai cưỡng ép hoặc cản trở.

Nhằm đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế và thực hiện cam kết của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế, pháp luật Việt Nam đã có những quy định thể hiện quan điểm tôn trọng, bảo vệ quyền tự do, bình đẳng về hôn nhân và gia đình của mọi người, không phân biệt đối xử. Theo quy định tại Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình cỏ yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; 3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế”.

c. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chẫm sóc, giúp đỡ nhau; khồng phân biệt đối xử giữa các con

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định một nguyên tắc cơ bản là tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và các con, các thành viên khác trong gia đình; Đề cao trách nhiệm cá nhân đối với gia đình.

Đây là một nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình được xác định theo tinh thần mới. Nếu như các đạo luật trước đó chỉ nhấn mạnh bảo vệ quyền lợi của các con, không bảo đảm quyền lợi của cha, mẹ, thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 một mặt bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con, mặt khác giáo dục tinh thần trách nhiệm giữa họ với nhau: “Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân cỏ ích cho xã hội. Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ” (Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).

Pháp luật phong kiến, tư sản coi rẻ quyền lợi con cái và hạn chế quyền lợi các con. Xuất phát từ tư tưởng chống quan điểm phong kiến, tư sản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đề ra nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái, đồng thời có quy định: “Con cải cỏ nghĩa vụ kỉnh yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ” (Điều 17). Nhưng do nhận thức không đầy đủ nên khi áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật hết sức phiến diện: chỉ chú trọng đến quyền lợi của con cái mà quên mất việc giáo dục tính trách nhiệm của các con đối với cha mẹ. Mặt khác, lối sống thực dụng hưởng thụ đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của con người trong gia đình và xã hội. Trong một số gia đình, tình trạng con cái vô trách nhiệm đối với cha mẹ, cha mẹ bỏ mặc con không nơi nương tựa đã trở thành một thực trạng, là mối lo ngại của Nhà nước và xã hội. Vi vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, một mặt khẳng định nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con, mặt khác xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của các thành viên khác trong gia đình nhằm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Chương V (từ Điều 68 đến Điều 87) quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ nhân thân, quyền và nghĩa vụ tài sản giữa cha mẹ - các con. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định: “Không được phân biệt đổi xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động;... ” (Điều 69).

Mục 2 Chương V Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (từ Điều 88 đến Điều 102) quy định việc xác định quan hệ cha mẹ, các con trên tinh thần bảo vệ lợi ích của các con, bảo đảm thực hiện quyền làm mẹ của phụ nữ, đồng thời ổn định quan hệ gia đình trong thời đại bùng nổ khoa học kĩ thuật và công nghệ. Cùng với những quy định về việc xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung những quy định cụ thể về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, quyền, nghĩa vụ các bên, giải quyết tranh chấp và xử lí hành vi vi phạm pháp luật về sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ (Điều 93 đến Điều 100).

Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con nhằm xác định nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ phải chăm sóc nuôi dưỡng con đảm bảo sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức, đồng thời phải giáo dục con có trách nhiệm với cha mẹ. Trên tinh thần đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác định trách nhiệm pháp lí giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quyền, nghĩa vụ của con dâu, con rể, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng (Điều 80). Mặt khác, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đề cao trách nhiệm pháp lí giữa các thành viên trong gia đình như ông, bà với các cháu; cha, mẹ với các con; anh, chị, em với nhau và các thành viên khác (Chương VI và Chương VII).

Sự thay đổi trong quan điểm về gia đình và điều chỉnh pháp luật các quan hệ gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thể hiện tinh thần “xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con”, là hoàn toàn phù hợp với truyền thống đạo đức, văn hóa pháp lí và xu thế chung của thời đại, đề cao vai trò gia đình và bảo vệ quyền con người, về cơ bản, nguyên tắc này là sự kế thừa và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.

iv) Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hô trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hỉện kế hoạch hóa gia đình

Trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thuộc nhóm những người yếu thế trong xã hội. Nguyên tắc này được xác định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là sự cụ thể hóa Hiến pháp về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội, gia đình, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ - các con nhằm xác định nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ phải chăm sóc nuôi dưỡng con đảm bảo sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức, đồng thời phải giáo dục con có trách nhiệm với cha mẹ. Trên tinh thần đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác định trách nhiệm pháp lí giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quyền, nghĩa vụ của con dâu, con rể, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng (Điều 80). Mặt khác, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đề cao trách nhiệm pháp lí giữa các thành viên trong gia đình như ông, bà với các cháu; cha, mẹ với các con; anh, chị, em với nhau và các thành viên khác (Chương VI và Chương VII).

Sự thay đổi trong quan điểm về gia đình và điều chỉnh pháp luật các quan hệ gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thể hiện tinh thần “xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con”, là hoàn toàn phù hợp với truyền thống đạo đức, văn hóa pháp lí và xu thế chung của thời đại, đề cao vai trò gia đình và bảo vệ quyền con người, về cơ bản, nguyên tắc này là sự kế thừa và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.

d. Kế thừa, phát huy truyền thong văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình

Mỗi quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình đều chứa đựng tinh thần kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, gắn kết với đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình. Những quy định về quan hệ vợ chồng, cha mẹ, các con; những quy định về quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng (Điều 79); quan hệ giữa bố mẹ chồng với con dâu, bố mẹ vợ với con rể (Điều 80); quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình (Chương VI). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khẳng định: “Nhà nước có chỉnh sách tạo điều kiện đế các thế hệ trong gia đình quan tâm, chẫm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; khuyến khích các cả nhân, tổ chức trong xã hội cùng tham gia vào việc giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam ” (Điều 103).

 

0 bình luận, đánh giá về Khái quát về Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
1.73789 sec| 1199.523 kb