Nhà nước quân chủ nghị viện Anh

30/03/2023
Lê Thị Linh Chi
Lê Thị Linh Chi
Là sản phẩm của cuộc nội chiến cách mạng chống phong kiến không triệt để, nhà nước tư sản Anh điển hình cho chính thể quân chủ nghị viện. Trong thời kỳ chủ nghĩa ta bản tự do cạnh tranh, Anh là nước tư bản lớn nhất thế giới.

I- Cách mạng tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản Anh

Đến giữa thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một nước quân chủ chuyên chế phong kiến. Mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến với giai cấp tư sản và nhân dân lao động ngày càng gay gắt. Trước khi cuộc nội chiến cách mạng bùng nổ, phong trào đấu tranh chống phong kiến đã phát triển mạnh mẽ. Trước hết, đó là những cuộc nổi dậy khởi nghĩa của quần chúng. Đồng thời có cuộc đấu tranh gay gắt giữa nhà vua với tư sản diễn ra ở nghị viện. Lúc này hầu hết nghị viện là tư sản hoặc quý tộc mới (quý tộc tư sản hoá). Nên nghị viện là dinh luỹ chính trị của giai cấp tư sản.

Quá trình cách mạng tư sản Anh diễn ra qua hai cuộc nội chiến: cuộc nội chiến lần thứ nhất (1642-1646) và cuộc nội chiến lần thứ hai (1648). Do cao trào đấu tranh của quần chúng và áp lực của nghị viện, trước ngưỡng cửa của cuộc nội chiến, vua Sáclơ I cùng các quý tộc trung thành đã bỏ Luân Đôn và chuyển sang thành phố Oxpho. Như vậy, lúc này có hai chính quyền song song: Chính quyền phong kiến của nhà vua ở Oxpho, nghị viện ở Luân Đôn thực hiện chức năng chính quyền của tư sản. Nghị viện tuyên bố giải tán quân đội nhà vua và lập thành quân đội của nghị viện.

Ngày 22/08/1642, vua Sáclơ I chính thức tuyên chiến với lực lượng cách mạng (lực lượng tư sản tiến bộ và toàn thể quần chúng nhân dân). Lúc này, xuất phát từ quyền lợi khác nhau, nội bộ nghị viện phân hoá thành hai phái: Phái trưởng lão chiếm đa số, đại diện cho tầng lớp đại tư sản, chủ trương thỏa hiệp với vua, coi chiến tranh là phương tiện để ép vua phải chịu nhượng bộ một số quyền lợi. Phái độc lập chiếm thiểu số trong nghị viện, đại biểu cho quyền lợi của tầng lớp tư sản bậc trung, được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, có thái độ kiên quyết với nhà vua hơn. Thái độ đối với chiến tranh và cuộc tranh giành quyền lãnh đạo trong nội bộ giai cấp tư sản có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình diễn biến của nội chiến cách mạng.

Lúc đầu quân đội của nghị viện liên tiếp bị thất bại. Nhưng sau đó quân đội của nghị viện, do được cải tổ lại mà trong đó nòng cốt là đạo quân kị binh của Crôm Oen đã nhanh chóng phản công thắng lợi. Crôm Oem là một trong những lãnh tụ xuất sắc của phái độc lập, đồng thời trở thành lãnh tụ của cách mạng tư sản. Bọn sĩ quan của phe trướng lão bị loại, quân đội nắm trong tay phái độc lập. Năm 1646, Sáclơ I bị bắt. Sau cuộc nội chiến lần thứ I, phái độc lập khống chế được nghị viện. Phái độc lập lại chủ trương thương lượng với vua để hợp pháp hóa chính quyền tư sản do họ nắm giữ và không đáp ứng các yêu cầu của quần chúng nhân dân.


 

Trong lúc phái trưởng lão và sau đó là phái độc lập tìm cách thương lượng với nhà vua, thì Sáclơ I vẫn ngoan cố và tìm cách phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến. Sáclơ I trốn khỏi nhà giam và tập hợp lực lượng phản kích lại quân cách mạng. Cuộc nội chiến lần thứ hai bùng nổ. Quân đội cách mạng do Crôm Oen chỉ huy đánh bại quân đội nhà vua. Đến tháng 8/1648 cuộc nội chiến kết thúc. Sáclơ I lại bị bắt.

Trước áp lực của quần chúng nhân dân, ngày 23/12/1648, nghị viện trong tay phái độc lập thông qua sắc lệnh xét xử nhà vua. Ngày 4/1/1649 nghị viện thông qua nghị quyết, khẳng định quyền tối cao của hạ nghị viện trong bộ máy nhà nước (kể cả đối với thượng nghị viện, nhà vua). Nghị quyết viết: "1- Nhân dân, dưới quyền lực của thượng đế, là gốc rễ của mọi chính quyền chân chính. 2- Hạ viện do nhân dân bầu ra, có quyền lực tối cao trong quốc gia. 3- Những gì hạ viện tuyên bố là pháp luật thì nó có hiệu lực, dù cho các thượng nghị sĩ, nhà vua có phản bác".

Nghị viện cử ra Tòa án tối cao gồm 135 ủy viên, phụ trách xét xử nhà vua. Ngày 30/01/1649 Sác lơ I phải lên đoạn đầu đài.

Ngày 19/05/1649, trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, nền cộng hoà được tuyên bố chính thức thành lập. Hạ nghị viện nắm quyền lập pháp. Thượng nghị viện bị giải tán. Quyền hành pháp được giao cho nội các do nghị viện bầu ra. Những người của phái độc lập chiếm ưu thế trong chính quyền nhà nước tư sản. Tầng lớp sĩ quan quân đội đứng đầu là Crôm Oen nắm giữ những chức vụ quan trọng.

Như vậy, lúc đầu nhà nước tư sản Anh mang chính thể: Cộng hòa nghị viện và chính thể này chi tồn tại trong một thời gian ngắn.

II- Nhà nước sau cách mạng tư sản, sự thiết lập chính thể quân chủ nghị viện và tổ chức của bộ máy nhà nước.

1- Sự thiết lập chính thể quân chủ nghị viện:

Sau khi cuộc nội chiến cách mạng kết thúc, quần chúng nhân dân tiếp lục đấu tranh mạnh mẽ, đòi chính quyền tư sản phải thực hiện lời hứa với quần chúng cách mạng. Giai cấp tư sản rất lo sợ phong trào của quần chúng nhân dân. Vì vậy, giai cấp tư sản, một mặt thẳng tay đàn áp phong trào quần chúng, mặt khác sẵn sàng thủ tiêu nền cộng hoà để xây dựng một chính quyền có "bàn tay sát" vừa có đủ sức mạnh trấn áp phong trào trong nước, vừa có khả năng chiến thắng những quốc gia cạnh tranh bên ngoài.

Năm 653, Crômm Oen và Hội đồng sĩ quan của ông ta đưa ra một văn bản có tính lập hiến, nhưng với cái tên kỳ quặc là "công cụ điều hành". Theo văn bản này, những công dân phải có thu nhập hàng năm từ 200 bảng mới có đủ tư cách cử tri bầu hạ nghị viện. Quy định này loại phần đông dân chúng ra khỏi chế độ bầu cử. Văn bản đó tước bỏ quyền lập pháp, quyền thu thuế của nghị viện và tập trung vào quan bảo hộ. "Công cụ điều hành" ghi đích danh Crôm Oen là quan bảo hộ.

Từ đó, nghị viện (tức hạ nghị viện) chỉ còn là hình thức. Các nghị sĩ được chọn cẩn thận. Crôm Oen mang danh "nhà bảo hộ" nhưng đã trở thành kẻ độc tài, nắm mọi quyền hành, tổng tư lệnh quân đội, kiểm tra tài chính và toà án, quyết định chính sách đối nội và đối ngoại. Toàn quốc chia làm 11 khu đứng đầu là hóng dốc - các tướng tay chân của Crôm Oen, trật tự quân sự, cảnh sát ngự trị trong cả nước. Như vậy, nền cộng hoà đã bị thủ tiêu.

Tuy vậy, liều thuốc đó cũng không cứu được chính quyền tư sản thoát khỏi những khó khăn ngày càng trầm trọng. Làn sóng căm phẫn của quần chúng nhân dân vẫn không ngừng bùng lên và lan tràn trong toàn quốc, công thương nghiệp bị đình trệ. Tình hình trên làm cho bọn đại tư sản và quý tộc mới có khuynh hướng bảo hoàng không tin tưởng ở sức mạnh của chính quyền "bảo hộ" và muốn thay thế bằng một chính quyền khác, một chính thể khác. Tướng Môncơ, tư lệnh quân đội Anh ở Xcốt len, đại diện cho khuynh hướng đó, đưa quân về Luân Đôn ủng hộ phái tư sản bảo hoàng. Chế độ hai viện của nghị viện được phục hồi và phần lớn nghị viện là các phần tử cánh hữu. Đồng thời năm 1660, Sáclơ II đang lưu vong ở nước ngoài, được mời về nước lên ngôi vua. Năm 1685 Sáclơ II chết, em là Giêm II nối ngôi vua, nhưng chỉ được cai trị trong 3 năm. Các vị vua này đều không muốn nằm trong khuôn khổ của chính thể quân chủ nghị viện, mà đã từng bước tìm cách khôi phục chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, đe dọa địa vị và quyền lợi của giai cấp tư sản. Vì vậy những đại biểu của tư sản và quý tộc mới trong Đàng Uých (tiền thân của đảng Bảo thủ, gồm chủ ngân hàng, thương nhân, chủ đồn điền....) và đàng Tôry (tiền thân của đảng Tự do gồm các địa chủ) hợp tác với nhau, để tìm cách lật đổ nền thống trị của Gièm II và tìm một vị quân vương khác dễ sai khiến hơn. Người đó là Vin hem Orăng giơ. Về danh nghĩa dòng họ, Vin hem có đủ tư cách thay thế ngôi vua, vì ông ta là con rể của Giêm II. Về thực tế Vin hem là nhà tư sản. Đầu tháng 11 năm 1688, được sự chỉ đạo và ủng hộ của giai cấp tư sản, Vin hem dẫn quân vào Luân Đôn, lật đổ Giem II và lên ngôi vua, lấy danh hiệu là Vin hem III. Để đảm bảo chắc chắn địa vị, quyền lợi của giai cấp tư sản và quý tộc mới, tháng 2/1689, nghị viện thông qua "đạo luật về quyền hành". Theo đạo luật này, quyền lực nhà nước tập trung vào nghị viện, nhà vua không có thực quyền. Đạo luật về quyền hành quy định:

- Mọi đạo luật và mọi thứ thuế chỉ đều do nghị viện quyết định;

- Không một ai, ngoài nghị viện, có thể chấm dứt hiệu lực của đạo luật;

- Bảo đảm sự tự do tranh luận tại nghị viện;

- Hàng năm, nghị viện xác định thành phần và số lượng quân đội, xét duyệt kinh phí quốc phòng.

Đồng thời tư sản và phái quý tộc đã đi tới những thỏa hiệp sau:

- Giai cấp tư sản chấp thuận để giới quý tộc tham gia vào bộ máy nhà nước. Những quý tộc ruộng đất vẫn được giữ nguyên quyền lợi ruộng đất, nhưng việc kinh doanh ruộng đất không được đi ngược lại quyền lợi của giai cấp tư sản.

- Các nghệ sĩ quý tộc phải bỏ phiếu đồng ý cho các đạo luật phù hợp với lợi ích của giai cấp tư sản.

Đạo luật về quyền hành và những thỏa hiệp của liên minh tư sản với quý tộc trở thành cơ sở pháp lý và sự bền vững của nền quân chủ lập hiến, là một trong những nguồn của hiến pháp không thành văn bản ở Anh.

Từ đây, chính thể quân chủ nghị viện đã được xác lập. Anh là nước có nền quân chủ nghị viện sớm nhất. Sau cách mạng tư sản, giai cấp tư sản Anh phải xoá bỏ hình thức nhà nước cộng hòa nghị viện và thay vào đó là chính thể quân chủ nghị viện vì:

- Hoảng sợ trước lực lượng cách mạng quần chúng nhân dân, giai cấp tư sản phải liên minh với thế lực phong kiến cũ để bảo vệ địa vị, quyền lợi của mình, tức là phải thiết lập nhà nước tư sản dưới hình thức quân chủ nghị viên.

- Cuộc cách mạng tư sản Anh chống phong kiến không triệt để. Sau cách mạng, tuy chính thể quân chủ chuyên chế đã bị xoá bỏ, nhưng thế lực phong kiến vẫn tồn tại và là lực lượng chính trị trong xã hội. Sự cấu kết giữa giai cấp tư sản và thế lực phong kiến được phản ánh ở thượng tầng kiến trúc, là hình thức nhà nước quân chủ nghị viện mà quyền lực nhà nước tập trung vào nghị viện.

- Do tập quán và tâm lý chính trị truyền thống, chế độ quân chủ phong kiến đã từng tồn tại hàng trăm năm. Sau cách mạng tư sản, trong thành phần giai cấp tư sản có tầng lớp vốn xuất thân từ quý tộc phong kiến, tức quý tộc tư sản hoá. Nên hình ảnh một quân vương vẫn còn sống động trong tâm lý chính trị của họ. Việc thiết lập hình thức quân chủ lập hiến còn nhằm hoà hợp được với Châu Âu phong kiến lúc đó.

2- Quá trình hình thành "hiến pháp không thành văn" và Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ nghị viện:

Sau khi được xác lập vào những năm tiếp theo (từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỷ XX), thể chế của nền quân chủ lập hiến ở Anh được hoàn thiện và định hình từng bước. Quá trình này được thể hiện bằng một số đạo luật bổ sung và đặc biệt là theo tiền lệ (sự hình thành các tập quán chính trị). Đó cũng là quá trình hình thành hiến pháp không thành văn của Anh. Cụ thể sau đây là một số minh chứng tiêu biểu:

3- Luật về quyền hành 1689 dần dần được bổ sung:

- “Văn kiện ba năm" năm 1694 quy định nhiệm kỳ của hạ viện là 03 năm. Từ những năm 1870, nhiệm kỳ của hạ viện là 07 năm.

- "Văn kiện" năm 1701 đặt cơ sở bước đầu hình thành hai nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc "chữ ký thứ hai". Nguyên tắc này là bất cứ văn kiện nào của nhà vua để có hiệu lực thì cần phải có chữ ký thứ hai - chữ ký của thủ tướng hoặc của một bộ trưởng bộ có liên quan tới vấn đề có ghi trong văn bản đó. Năm 1711, nguyên tắc "chữ ký thứ hai" được bổ sung thêm nguyên tắc: không chịu trách nhiệm của nhà vua, nhà vua không được làm điều ác, người phải chịu trách nhiệm về văn bản của vua là bộ trưởng hoặc thủ tướng. Mục đích thực tiễn của nguyên tắc chữ ký thứ hai là hạn chế quyền lực của hoàng đế. Nguyên tắc thứ hai là "không thay thế quan toà". Mục đích ban đầu của nguyên tắc này là ngăn ngừa sự chuyên quyền của nhà vua. Nguyên tắc này là nhà vua bổ nhiệm các thẩm phán, nhưng việc thay đổi các quan tòa lại thuộc quyền của nghị viện.

Trong thế kỷ XVIII - XIX cũng là quá trình hình thành tiền lệ pháp được gọi là nguyên tắc "chính phủ trách nhiệm". Trong luật pháp thành văn, nội các chưa bao giờ tồn tại. Nhưng trên thực tế dần dần nó được hình thành và nó không chỉ hoạt động, mà ngày càng được củng cố. Nhờ vào nghị viện, nội các hạn chế được quyền lực của nhà vua. Song cũng nảy sinh những mâu thuẫn giữa nghị viện và nội các về quyền hạn. Do nghị viện nắm quyền lập pháp, quyết định ngân sách,... nên nội các muốn tồn tại được thì phải được sự ủng hộ của đa số thành viên hạ viện. Và dần dần hình thành tập quán chính trị: nghị viện dành cho mình quyền giám sát nội các, hay nói cách khác, chính phủ phải có trách nhiệm trước nghị viện (cụ thể là trước hạ viện).

Ngoài ra một loạt các nguyên tắc cơ bản khác của chính thể quân chủ lập hiến cũng dần dần được định hình theo con đường "tiền lệ pháp“, như tập quán truyền ngôi vua, mối quan hệ giữa thượng viện và hạ viện v.v. Tổng hợp những vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc đó, được người ta gọi là "hiến pháp không thành văn" của nước Anh.

Vậy tại sao nước Anh tư sản chỉ có hiến pháp không thành văn, mà không có hiến pháp thành văn như các nước tư sản sau này.

- Thứ nhất, nhà nước tư sản Anh là nhà nước tư sản đầu tiên. Cuộc cách mạng tư sản Anh cũng là cuộc cách mạng luật pháp lớn lao đầu tiên. Nó có nhiều sáng kiến pháp luật nổi tiếng, nhưng không thể sáng tạo đầy đủ được. Trong đó nó chưa nghĩ ra được hình thức hiến pháp.

- Thứ hai, ở Anh các nguyên tắc và những quy chế mang tính lập hiến tạo nên chính thể tư sản là kết quả của cả một quá trình đấu tranh lâu dài giữa giai cấp tư sản và thế lực quý tộc cũ. Nên ngay từ đầu không thể có một văn bản cơ bản mang tính hiến pháp đầy đủ.

Cuối cùng, chính thể quân chủ nghị viện Anh được định hình như sau: chính thể này gồm ba bộ phận cơ bản.

(i) Hoàng đế:

Hoàng đế Anh truyền ngôi cho con trai, nếu không có con trai thì được truyền ngôi cho con gái. Người muốn lên ngôi hoàng đế phải là người nghiêm túc, trong sạch, theo nếp sống "khuôn vàng thước ngọc" của lễ giáo phong kiến, không được kết hôn hai lần trở lên, không ngoại tình, phải là người theo quốc giáo nước Anh.

Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia. Nhưng hoàng đế chỉ nặng về vai trò tượng trưng. Mọi hoạt động của hoàng đế chỉ nhằm một mục đích chính thức hoá về mặt nhà nước các hoạt động của nghị viện, của chính phủ. Mọi quyết định của hoàng đế chỉ có hiệu lực thực thi khi có chữ ký kèm theo của thủ tướng.

Tóm lại: Hoàng đế không có thực quyền và đúng như câu ngạn ngữ: "nhà vua trị vì, nhưng không Cai trị".

(ii) Nghị viện

Nước Anh là quê hương của nghị viện tư sản. Thời kì chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là thời hoàng kim của nghị viện. Nghị viện thật sự có ưu thế hơn hơn các cơ quan nhà nước khác. Lúc bấy giờ người Anh có câu ngạn ngữ “nghị viện có quyền được làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”. Nghị viện có những quyền hạn:

- Quyền lập pháp.

- Quyền quyết định ngân sách và thuế.

- Quyền giám sát hoạt động của nội các, bầu hoặc bãi nhiệm các thành viên của nội các.

Vai trò và quyền hạn của nghị viện lớn như vậy là để hạn chế mức tối đa quyền hạn của nhà vua, làm cho ngai vàng trở thành hư vị.

Nước Anh cũng là nước có cơ cấu hai viện vào loại sớm nhất. Sau khi xác lập chính thể quân chủ nghị viện, thượng nghị viện được khôi phục. Dần dần cơ cấu tổ chức, chức năng và quyền hạn của nó được định hình.

Thượng nghị viện hay còn gọi là viện nguyên lão, đúng như tên gọi, gồm: đại quý tộc mới, không phải qua bầu cử mà do tầng lớp đại tư sản quý tộc cử ra. Lúc đầu thượng nghị viện có uy quyền hơn hạ nghị viện. Dần dần, do là đại diện của thế lực bảo thủ, lỗi thời, đã hết vai trò lịch sử trong xã hội, nên thượng nghị viện vừa hoạt động rất hình thức, mang tính chất danh nghĩa, vừa là thế lực kiềm chế và đối trọng của hạ viện. Vai trò kiềm chế và đối trọng đó được thể hiện ở chỗ: khi có thượng viện, ít nhất trong công đoạn làm luật, làm cho việc thông qua các quyết định phải được tiến hành dài hơn, với những thủ tục rườm rà, để ngăn chặn sự quá tải, vội vàng của hạ nghị viện.

Thượng nghị sĩ được hình thành từ bốn nguồn sau:

- Thượng nghị sĩ là những quý tộc có phẩm hàm (tước vị). Trong đó từ bá tước trở lên thì được cha truyền con nối chức thượng nghị sĩ.

- Các thủ lĩnh tôn giáo đương nhiệm

- Các thủ tướng Anh hết nhiệm kỳ.

- Một số khác do đích thân hoàng đế bổ nhiệm.

Hạ nghị viện đại diện cho các tầng lớp trong cư dân và do dân bầu ra, nên còn được gọi là viện dân biểu. Buổi ban bầu, quyền hạn của hạ nghị viện và chế độ bầu cử còn bị hạn chế rất nhiều. Lúc đầu, sau cuộc chính biến của Vin hem năm 1688, trong số gần 7 triệu dân Anh, chỉ có 25 vạn người có quyền tuyển cử. Gần một nửa số hạ nghị sĩ là những người được bầu ra từ những "thị trấn hoang tàn). Đó là những vùng rất ít dân cư, thường bầu và cử theo ý muốn của chúa đất. Khi mảnh đất được bán đi, thì người chủ mới thay thế người chủ cũ làm hạ nghị sĩ. Ghế nghị viện được mua đi bán lại. Phiếu bầu cử cũng được mua. Sau đó mặc dù đã trải qua ba cuộc cải cách chế độ tuyển cử (từ 1832-1884) cũng chỉ có 4,5 triệu người trong tổng số 36 triệu người (chiếm 12,55%) được bầu cử. Đại đa số công nhân lớp dưới, cố nông, người đi ở và toàn thể phụ nữ bị gạt ra ngoài đời sống sinh hoạt chính trị - bầu cử. Sau này, hạ nghị viện ngày càng có nhiều quyền lực, lấn át vai trò, quyền hạn của thượng nghị viện. Chế độ đa đảng ở Anh là chế độ hai đảng. Thông qua việc giới thiệu các ứng cử viên của đảng để bầu vào hạ viện, hai đảng tư sản thay nhau khống chế nghị viện. Trong khoảng những năm 50-60 của thế kỉ XIX, ưu thế thuộc về đảng Tự do. Từ những năm 70 trở đi, ưu thế đó chuyển sang đảng Bào thủ.

(iii) Chính phủ.

Ở Anh, tiền thân của nội các là viện cơ mật. Thế kỳ XVII, trước cách mạng tư sản, viện cơ mật được vua lập ra và giữ vai trò tư vấn cho nhà vua. Sau cách mạng tư sản, từ năm 1714 một vị vua Anh mang dòng máu Đức là George, không biết rành rọt tiếng Anh, vốn rất chểnh mảng dự các phiên họp của viện cơ mật. Không có nhà vua chủ trì các phiên họp, dần dần viện cơ mật tách khỏi sự kiểm soát của nhà vua, thành viên viện cơ mật được gọi là bộ trưởng, hội nghị viện cơ mật thành nội các, vị chủ trì các phiên họp được gọi là thủ tướng. Nội các độc lập với nhà vua.

Sau đó nội các trở thành cơ quan có thực quyền, nắm quyền hành pháp. Thủ tướng được hoàng đế bổ nhiệm là thủ lĩnh đảng cầm quyền, đảng chiếm được đa số ghế trong hạ nghị viện. Điều này sau trở thành tập quán hiến pháp không thành văn của Anh. Hay nói cách khác, thực chất hạ nghị viện cử ra thủ tướng. Sau khi được hoàng đế bổ nhiệm, thủ tướng đứng ra thành lập chính phủ (các bộ trưởng nhất thiết phải là đại biểu của hạ viện hoặc thượng viên). Đó là chính phủ của đảng chiếm đa số trong hạ viện. Ở Anh, lập pháp và hành pháp đều nằm trong tay một đảng. Vì vậy, không mấy khi hạ viện bị giải tán. Hạ nghị viện chỉ có thể bị giải tán, nếu chính phủ thấy đảng của mình có dân số mỏng manh trong hạ viện, muốn có đa số vững chắc hơn, thì yêu cầu hoàng đế giải tán hạ nghị viện để bầu ra hạ nghị viện mới, với hy vọng sẽ có sự ủng hộ của đa số nhiều hơn, nhằm kéo dài thời gian cầm quyền của đảng mình.

Như vậy, thực chất cơ chế chính trị ở Anh là hai đảng tư sản thay nhau nắm chính quyền nhà nước.

Trong thời kì chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nước Anh có nền kinh tế phát triển nhất, trở thành công xưởng của thế giới. Anh cũng là đế quốc xâm chiếm nhiều thuộc địa nhất. Đến năm 1900 đế quốc "Mặt trời không bao giờ lặn” đó có đất đai thuộc địa rộng tới 33 triệu km2 với số dân 370 triệu người. Tư bản Anh là trung tâm áp bức, bóc lột nhân dân Anh và nhân dân thế giới.

0 bình luận, đánh giá về Nhà nước quân chủ nghị viện Anh

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
Thông tin người gửi
Tổng đài tư vấn: 024-66 527 527
Giờ làm việc: Thứ 2 - Thứ 7: 8h30 - 18h00
2.44096 sec| 1030.5 kb